LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI – SIDDHARTHA GOTAMA
LƯỢC
SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI – SIDDHARTHA GOTAMA
(Trích dẫn: Tạp A Hàm quyển 3 Kinh
1077 từ trang 661 đến 666.Tăng Nhất A Hàm quyển 1 từ trang 460 đến 500, quyển 2
trang 495. Trường A Hàm quyển 1 từ trang 607 đến 628. Trung A Hàm quyển 3 trang
11, 12, 13, từ trang 557 đến 565, quyển 4 từ trang 518 đến 535, từ trang 667 đến
680. Phật Học Phổ Thông quyển 1 từ tr. 33 đến 51, Đức Phật & Phật Pháp từ
tr. 23 đến 273)
I
)- Từ Đản Sinh tới Thành Đạo:
1)-
Đản sinh
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng
năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ. Nay
thuộc nước Tích Lan (Nepal) ở gần chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) cách thành
Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) khoảng 15 cây số (gần 10 dặm Anh). Hoàng hậu Ma Da
(Maha Maya) của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc qúy tộc Thích Ca (Sakya) họ Cù
Đàm (Gotama) hạ sinh một Hoàng tử.
Sau khi sinh được bảy ngày, Hoàng hậu băng hà, sinh
lên cõi trời Đâu Suất, Vua Tịnh Phạn giao Hoàng Tử cho em gái ruột của Hoàng hậu
là Ma Ha Bà Xà Ba Đề (Mahã Pajãpati), kế mẫu nuôi dưỡng chăm sóc.
Tin Hoàng tử chào đời được loan truyền trong nhân
gian, thần dân vui mừng, Vua mời một số đạo sĩ đến coi tướng, các đạo sĩ đều
nói Hoàng tử có 32 tướng tốt, trên đời chưa thấy ai có; nếu sau này làm vua sẽ
là một Hoàng Đế nhân đức anh minh, còn nếu xuất gia học đạo sẽ là bậc đại
Thánh, một đại vĩ nhân. Vì vậy Vua đặt tên là Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) có nghĩa
là toại nguyện, Vua cũng phong cho Sĩ Đạt Ta là con trưởng sẽ nối ngôi vua sau
này, nên gọi là Thái tử Sĩ Đạt Ta.
2)-
Tuổi niên thiếu:
Thái tử mỗi năm mỗi lớn, diện mạo càng thêm khôi ngô
tuấn tú, tài năng phát triển vượt bực, Thái tử có một sức khoẻ cường tráng, một
trí óc thông minh xuất chúng, từ văn đến võ, các trai tráng trong hoàng tộc
không ai sánh kịp, học thầy nào cũng chỉ trong một thời gian ngắn là học hết
quyền thuật chữ nghĩa của thầy. Mặc dù tài sức hơn người, nhưng Thái tử không
bao giờ tỏ ra kiêu ngạo khinh người, trái lại có một thái độ nhã nhặn, thương
người thương vật, vô tư bình đẳng, do đó Thái tử được Vua cha thương yêu qúy mến
chiều chuộng; những người chung quanh mến trọng nể vì.
3)-
Lễ Hạ Điền:
Một hôm, nhân ngày lễ Hạ Điền (lễ bắt đầu làm ruộng của
nhà nông trong một năm) vào ngày đầu xuân, Thái tử theo Vua cha ra đồng. Mọi người
vui vẻ với buổi lễ trong cảnh gió xuân nắng ấm hoa lá tốt tươi, muôn chim hót
vang trong cảnh êm đẹp thái bình; trong khi mọi người mải vui với buổi lễ như
thế, Thái tử ngồi một mình bắt chéo hai chân như người ngồi thiền dưới bóng
cây. Thái tử nghĩ rằng những cảnh đẹp, chứ thực ra không phải thế, như trâu bò
khổ cực kéo cày, người nông dân phải làm việc cực khổ, chân lấm tay bùn để có
cơm ăn áo mặc. Thái tử ngồi một mình suy nghĩ trầm tư như thế rồi vào định tâm
. . .
4)-
Thành hôn:
Thấm thoắt Thái tử đã 16 tuổi, các việc học hành tập
luyện đều chu toàn đầy đủ, có vóc dáng của người hai chục tuổi, lại khôi ngô tuấn
tú. Vua Tịnh Phạn muốn con mình sẽ nối ngôi sau này nên ép Thái tử thành hôn với
Công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) đẹp đẽ nết na chu toàn cùng tuổi. Vua cho lập
cung điện bốn mùa thay đổi, chọn các mỹ nữ trẻ đẹp hầu hạ Thái tử; chung quanh
cung điện là ao hồ, vườn cây luôn đẹp đẽ xanh tươi, hoa lá rực rỡ như cảnh thần
tiên. Đời sống vương giả thật đầy đủ, cao lương mỹ vị, đàn ca múa hát, ngày đêm
có người luân phiên chầu chực hầu hạ, lên xe xuống ngựa trong hoàng thành rộng
lớn.
Cuộc đời nhung lụa sung sướng với vợ đẹp hiền ngoan
như thế đã trên mười năm, mọi người tưởng rằng Thái tử sẽ tiếp tục sống mãi như
thế tới ngày Vua cha truyền ngôi để trì vì đất nước. Rồi Công Chúa sinh con
trai tên La Hầu La, Vua Tịnh Phạn càng thêm vui mừng, vì có thêm sự ràng buộc
Thái tử hơn nữa. Mặc dù sống đời sung sướng, vợ đẹp, con ngoan, Thái tử vẫn thấy
trong lòng nặng trĩu nỗi băn khoăn thắc mắc đời sống thật sự bên ngoài hoàng
thành.
5)-
Nhận rõ cảnh khổ:
Một hôm, Thái tử xin Vua cha cho người hướng dẫn đi dạo
ra ngoài cửa thành ngắm cảnh, ra đến cửa Đông, Ngài thấy một ông già đầu bạc trắng,
lưng còng, răng rụng, lần bước đi một cách khó khăn; đến cửa Nam, Ngài thấy một
người nằm co quắp trên cỏ đang kêu la đau đớn, hỏi thăm được biết người này
đang bị bệnh; đến cửa Tây, Ngài thấy một người chết nằm bên đường. Thấy ba cảnh
tang thương ấy, Thái tử nhận rõ bộ mặt thật của cuộc đời là khổ, những cảnh xa
hoa trong hoàng cung chỉ là giả dối; Ngài muốn tìm cách giải quyết làm sao để cứu
chúng sanh khỏi khổ đau, bệnh, chết, nhưng Ngài chưa biết phải làm gì, nên
trong lòng Ngài nặng nề hơn.
Mấy ngày sau, Thái tử lại xin đi dạo chơi, lần này ra
cửa Bắc, Ngài thấy một người ngồi kết già dưới gốc cây, thản nhiên không để ý
các người qua lại; thấy vậy, Ngài có một sự cảm mến với vị ấy, và hé nảy sinh
con đường cứu bệnh khổ già chết trong tâm tư, Ngài liền trở về cung thưa với
Vua cha xin xuất gia học đạo, nhưng bị từ khước. Thái tử trình Vua bốn sự việc
nếu Vua giải quyết được, Ngài sẽ bỏ việc học đạo, đó là:
1- Làm sao mọi người trẻ mãi không già,
2- Làm sao mọi người khỏe mãi không bệnh,
3- Làm sao mọi người sống mãi không chết,
4- Làm sao mọi người hết khổ.
Vua nghe Ngài hỏi
như thế, buồn rầu không giải quyết được, và nói: “Những việc đó là thường ở đời,
đương nhiên phải già, bệnh, khổ, chết, không có cách nào giải quyết được, đành
chịu mà thôi”.
6)-
Xuất gia tìm đạo:
Lúc này, Vua lại tìm đủ cách để giữ chân Thái tử, nhưng
từ khi thấy bốn cảnh ở bốn cửa thành, Ngài đã tìm ra được giải đáp: “Ở đời là
khổ, tất cả chỉ là tạm bợ, ngay cả cái thân ta mai này cũng sẽ vào cát bụi. Ta
phải tìm chân lý để cứu mình và cứu tất cả chúng sinh”. Ngài đã nhất quyết
trong lòng con đường tìm chân lý giải thoát. Cung vàng điện ngọc, địa vị giàu
sang, vợ đẹp con ngoan, sống sung sướng v.v…. không thể sánh với sự giải thoát
to lớn và cứu độ chúng sanh khỏi khổ đau.
Trong một đêm khuya, mọi người đương giấc ngủ say sưa,
Thái tử Sĩ Đạt Ta nhìn vợ con đang an giấc, rồi cùng với người giữ ngựa lặng lẽ
rời khỏi hoàng thành trong đêm tối. Lúc đó Ngài 29 tuổi, tuổi tráng niên cường
lực, dứt bỏ hết để ra đi tìm đạo với hai bàn tay trắng, để sống một cuộc đời
chưa biết sẽ ra sao.
Sáng hôm sau, khi đã vượt qua sông Anoma (Neranjara),
Ngài dừng chân trên bãi cát, dùng thanh kiếm sắc bén tự cạo râu tóc xong trao
áo mão (mũ) kiếm cho người giữ ngựa đem trở về trình Vua; Ngài khoác vào mình tấm
vải vàng cam làm áo, tự nguyện sống đời tu sĩ, và chấp nhận mọi sự thiếu thốn vật
chất. Từ một người sống trong nhung lụa giàu sang quyền qúy, bỗng nhiên trở
thành người đi lang thang trong nóng nực, lạnh lẽo, như người bất định trong
sương gió. Đầu đội trời, chận đạp đất, không giày dép mũ nón, chỉ một mảnh vải
che thân, không nhà không cửa. Đạo sĩ Cù Đàm lấy bóng cây hang đá là nhà để
tránh nắng che mưa, trú dông bão tố, mang bát đi khất thực để sống v.v…
Ngài tìm đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, Ngài học
và hành, đạt những gì đạo sĩ ấy đạt; Đạo sĩ Alarama Kalama mời Ngài cộng tác dạy
đám đệ tử, nhưng Ngài từ chối vì không thỏa mãn những gì đã đạt được. Đạo sĩ Cù
Đàm rời vị ấy tìm đến một vị thứ hai, đạo sĩ Uddaka Ramaputta, Ngài học và cũng
chứng những gì vị ấy chứng; vị thứ hai nhường cho đạo sĩ Cù Đàm làm đạo sư hướng
dẫn các đạo sĩ ở đó, nhưng sự chứng không giải quyết được những điều mà Ngài
mong muốn, chưa phải là chân lý, chưa phải là Niết Bàn tối thượng, do đó Ngài lại
ra đi.
7)-
Tu Khổ Hạnh
Đạo sĩ Cù Đàm đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma
Kiệt tự tu tập một mình, lúc ấy có đạo sĩ Kiều Trần Như là người trẻ nhất trong
số đạo sĩ được Vua Tịnh Phạn mời xưa kia khi mới sinh Hoàng tử Sĩ Đạt Ta. Ông
nghe tin Thái tử đã xuất gia học đạo, nên dẫn bốn người đồng tu tìm đến gặp
Ngài để cùng tu.
Thời bấy giờ, nhiều người có quan niệm: “Chỉ có tu khổ
hạnh mới giải thoát được”, nên ông Kiều Trần Như đã thuyết phục Ngài nhập chung
với năm người cùng tu khổ hạnh. Do đó đạo sĩ Cù Đàm đã khép mình để cùng tu
trong thời gian dài trên năm năm khổ hạnh.
Từ một thân hình cường tráng khỏe mạnh dần dần cho đến
một thân hình chỉ còn da bọc xương, dùng vô số phương tiện của khổ hạnh để tu,
Ngài chỉ ăn rau cỏ để thiền, nhịn thở để thiền, chỉ ăn một vài hạt đậu và một
ít nước mỗi ngày để thiền v.v…
Thân hình đạo sĩ Cù Đàm trở nên gầy còm đến nỗi xương
bàn tọa ngồi như móng con lừa, xương sống như xâu chuỗi hột, lưng còng xuống,
xương sườn phơi ra tựa như sườn nhà bị đổ, hai mắt hõm vào như sao dưới đáy giếng
sâu thẳm. Khi sờ da bụng lại đụng xương sống, đi lại té tới ngã lui, Ngài cứ phải
đập nhè nhẹ vào thân làm cho tỉnh táo, thì lông từ da không còn sức bám rơi xuống
lả tả; nước da trước kia hồng hào tươi mát, lúc đó chỉ còn thấy là màu sạm đen
như da người chết!
Mặc dù khổ hành đến cùng cực như thế, mặc dù không ai
tinh tấn bằng đạo sĩ Cù Đàm, các đạo sĩ vẫn cho là cần phải tiếp tục khổ hạnh để
đạt chân lý; thấy rõ ràng sau khi trải qua thời gian dài khổ hạnh như thế, cái
chết đã gần kề, đạo qủa chân lý chẳng thấy đâu, trí thức suy giảm, tinh thần mệt
mỏi, Ngài quyết định dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh. Vì cần có một thân hình
khỏe mạnh, một trí óc sáng suốt để suy gẫm đạt chân lý, nên Ngài bắt đầu dùng vật
thực thô sơ trở lại.
8)-
Tu Trung Đạo
Quyết định từ bỏ lối sống khổ hạnh, nhưng Ngài cũng
không quay lại lối sống lợi dưỡng, mà vạch ra đường lối tu Trung đạo, Ngài biết
rằng tu bằng đường Trung đạo sẽ tác thành nhẫn, tác thành trí tự tại, tác thành
định đưa đến trí, sẽ đưa đến giác ngộ.
Năm vị đạo sĩ đồng tu thấy thế liền chê trách: “Đạo sĩ
Cù Đàm không đủ kiên nhẫn”, họ liền bỏ đi; không vì thế mà thối chí ngã lòng, một
mình Ngài trong chốn rừng sâu tu tập.
Bấy giờ, đạo sĩ Cù Đàm nghĩ rằng: “Ta đã đi tìm hết
các nơi, không có một ai đủ khả năng dẫn dắt ta thành tựu mục tiêu mà ta mong
muốn, vì chưa ai ra khỏi sự vô minh”. Ngài bèn đi đến vùng ngoại thành Vương Xá
nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, nơi có dòng sông trong mát, cây cối xanh thẳm,
hoa lá tốt tươi. Đi đến dưới gốc cây Bồ Đề lấy cỏ làm nệm ngồi thiền định, Ngài
thề nguyện rằng: “Nếu không đạt chân lý dù thịt nát xương tan ta cũng không rời
khỏi chỗ này”. Ngài đã liên tiếp trải qua nhiều gian nan thử thách về nội tâm
tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, rồi sau lại phải chiến đấu với ngoại cảnh Thiên
ma dùng đủ mọi tà pháp hòng cản trở Ngài việc thiền định; rút cục Ngài chiến thắng
cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được yên ổn trong thiền định.
9)-
Thành Đạo:
Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Ngài
chứng “Túc mệnh minh”, thấy rõ tất cả các đời qúa khứ một đời, hai đời, ba đời,
mười đời, trăm đời, nghìn đời; sinh chỗ này, tên là gì, cuộc sống ra sao, chết
sinh vào đâu v.v…, tất cả đều biết hết. Tiếp tục thiền định, tới khoảng nửa đêm
lúc canh ba, Ngài chứng “Thiên nhãn minh”, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết
cấu tạo thế giới vũ trụ thành trụ hoại diệt (thành lập, sống còn, tiêu hủy, chết
mất) như thế nào, đều biết hết thảy. Vẫn kiên cố hành thiền tam muội (thiền định),
đến khoảng 2 giờ sáng lúc canh tư, Ngài chứng “Lậu tận minh”, vô lậu, sạch hết
trần cấu (sạch hết ô nhiễm). Biết rõ Khổ, nguồn gốc của đau khổ, cách trừ đau
khổ, và con đường đạo qủa viên mãn. Ngài tự biết: “Ta đã giải thoát, không còn
tái sinh nữa, tu hành viên mãn, việc làm đã xong, không còn trở lại trạng thái
khi xưa nữa”.
Ngài từ từ mở mắt to ra chợt thấy sao Mai lấp lánh, hốt
nhiên “Toàn Ngộ”, thấu triệt cùng khắp chân lý vũ trụ, thần thông quảng đại,
Ngài đạt Đạo Vô Thượng, thành bậc “Chính Đẳng Chính Giác” nên được gọi là bậc
Toàn Giác, Như Lai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
II
)- Từ Thành Đạo tới nhập Niết Bàn:
1)-
Đức Phật hành Đạo
Sau khi thành Đạo, đức Phật quán khắp Vũ trụ, Ngài thấy
có vô lượng thế giới, quán chúng sinh Ngài biết mỗi chúng sanh đều có Phật tính
(tánh), vì chúng sinh ngụp lặn trong si mê tối tăm nên phải trầm luân trong biển
sinh tử luân hồi không có ngày ra khỏi. Ngài quán và biết rằng con người hiểu
được giáo lý nếu Ngài nói ra, và có người kham nhận được sự tu hành. Do đó, đức
Phật quyết định sẽ giáo hóa chúng sinh cho dù có khó khăn như thế nào đi nữa.
Ngài cũng phải làm nhiệm vụ của bậc Phật như tất cả chư Phật trong Vũ trụ đã
làm, đang làm và sẽ làm để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau và được giải
thoát. Sự hoằng pháp của đức Phật trên ba nguyên tắc:
a)-
Hành Đạo theo thứ lớp:
Bắt đầu đức Phật
nghĩ đến việc độ cho các bậc thiện tri thức là những người không còn nhiều trần
cấu nhiễm ô, nghĩ đến đạo sĩ Alamara Kalama là vị đạo sư mà lần đầu tiên Ngài
tìm đến tham học. Ngài dùng tuệ nhãn được biết vị này mới từ trần bảy ngày, Đức
Phật lại nghĩ đến Uddaka Ramaputta là vị thứ hai, dùng mắt Phật nhìn, Ngài thấy
vị này cũng vừa qua đời mới có một ngày!
1-
Ba tháng đầu: Đức Phật nghĩ đến năm vị đồng tu khổ hạnh,
Ngài bèn đi đến vườn Lộc Uyển xứ Benares gặp năm vị này là Kiều trần Như
(Kondana), Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực (Vappa), Ma ha Nam (Mahãnãma), và Ác Bệ
(Assaji)
Lúc đầu, năm vị thấy đức Phật đến đều tỏ ra nghi ngờ
và chỉ trích lối sống của Ngài, Đức Phật phải giải thích đến lần thứ ba rằng:
“Không có vấn đề sống xa hoa trở về đời sống lợi dưỡng, Ta chỉ làm sao cho thân
thể đủ sức chịu đựng để hành thiền kiên cố mà thôi. Đó là con đường trung đạo cần
phải theo, và bây giờ Ta đã thành Đạo, đạt qủa vô sinh bất diệt, nếu người nào
hành đúng như lời Như Lai dạy cũng sẽ chứng ngộ. Hơn nữa, nếu Như Lai không biết
các ông ở đâu, làm sao tìm đến đây được?; vả lại, Ta chưa bao giờ nói những lời
này với các ông, như vậy các ông đủ hiểu rồi”; bấy giờ năm vị mới tin, bỏ lối
tu khổ hạnh và nghe Giáo pháp của Ngài.
Bài giảng đầu tiên là “Bốn Diệu đế”, do “Sinh, già, bệnh,
chết” nên khổ, muốn khỏi khổ phải tìm nguyên nhân của khổ là do “Tham, sân, si
…”, và phải diệt khổ bằng “Tám Chính đạo” là “Chính Kiến, Chính tư duy, Chính
ngữ, Chính mệnh, Chính nghiệp, Chính tinh tấn, Chính niệm, và Chính định”. Cả
năm vị học và hành trì dần dần đều đắc quả Thánh, nhưng vị đắc qủa A La Hán (Quả
Ariya là quả A La Hán, Ariya có nghĩa là cao qúy) đầu tiên là Ngài Kiều Trần
Như.
Thời ấy, tại Ấn Độ, ngoài quan điểm sống theo lối khổ
hạnh để giác ngộ, còn có quan niệm cho rằng con người chết là hết, linh hồn và
thân xác tan biến, tất cả chẳng còn gì. Hãy ăn uống tận hưởng mọi lạc thú ở đời,
không cần biết đến đạo đức, khoái lạc là thực tế, không cần phải kiểm soát dục
vọng. Không có luân hồi, không có tái sinh, không có qủa báo thiện ác, tất cả
chỉ là bản năng tự nhiên mạnh được yếu thua v.v… Do đó, đức Phật đã phải đối
phó với các quan điểm sai lầm ấy.
2-
Thiết lập Tăng đoàn: Sau khi có năm đệ tử, đức Phật giáo hóa
55 Bà la môn mà ông Da xá (Yasa) là người dẫn đầu, số người này cùng với năm vị
đầu tiên hợp lại là 60 và kể như thiết lập Tăng đoàn từ đây.,Ngài dạy về “Bốn
Diệu Đế” và “Tám Chính Đạo”. Cha mẹ và vợ của ông Da Xá là Phật tử tại gia đầu
tiên của đức Phật. Sau ba tháng 60 vị đệ tử Phật đầu tiên này đã hành trì vững
chắc và giữ giới luật đầy đủ, đều đắc A la Hán, Đức Phật thọ ký và cho các vị ấy
đi hành đạo các nơi.
3-
Thu nhận hàng loạt đệ tử: Còn Ngài đi xuống phiá Nam đến xứ Ưu
Đầu Tuần La, thu phục Rắn lớn dữ trong phòng thờ lửa của người đứng đầu Đạo thờ
Thần lửa là Uruvela Ca Diếp (Uruvelã Kassapa), vị này đem 500 đệ tử cùng xin xuất
gia theo đức Phật tu hành. Vị này có hai người em đều ở mỗi người một nơi, một
người tên Nadi Ca Diếp (Nadĩ Kassapa) có 300 đệ tử, và Gaya Ca Diếp (Gayã
Kassapa) có 200 đệ tử. Cả hai người cũng thờ Thần lửa, khi thấy người anh đã
theo đức Phật tu hành, họ cùng với đệ tử đến theo Ngài tu hành.
Ngài giảng cho 1000 đệ tử này về: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý nằm trong lửa, lửa từ tham ái, sân hận, si mê, sinh già bệnh chết, buồn
phiền, đau khổ, tuyệt vọng; hãy quán nhàm chán hình sắc âm thanh, hương vị xúc,
chán luyến ái. Do sự nhàm chán dứt khoát ấy, được giải thoát. Tất cả hành trì
dũng mãnh nên đều chứng qủa Thánh.
4-
Thu nhận hai đệ tử quan trọng: Sau khi thu nạp hơn 1000
đệ tử, đức Phật đến nước Ma Kiệt để thực hiện việc hứa với Vua Tần Bà Xa La là
“Khi đắc Đạo sẽ trở lại”; khi Vua biết Ngài đã đắc Đạo rồi, mừng rỡ và cúng dường
Phật và Đại chúng Đạo tràng “Trúc Lâm”.
Lúc ấy, Xá Lợi Phất (Upatissa) và Mục Kiền Liên
(Kolita) cư ngụ gần thành Vương Xá (Rãjagaha), là bạn với nhau, có chí học đạo,
đã tìm đến nhiều thầy, và học hết chữ thầy rồi cũng chưa thỏa mãn. Một hôm, Xá
Lợi Phất thấy một Sa Môn đang đi khất thực trong thành Vương Xá với oai nghi của
bậc Thánh nhân, nên để ý và đến hỏi. Vị này cho biết tên là Ác Bệ (Assaji) và
qua câu chuyện, Xá Lợi Phất được Tôn giả Ác Bệ cho biết giáo pháp vắn tắt đã học
là “Tất cả ở đời đều do nhân duyên sinh, Như Lai chỉ rõ nhân duyên ấy và cách
diệt, đó là giáo huấn của vị Đại Sa Môn”; nghe những lời ấy, Xá Lợi Phất thấy
trí tuệ bừng sáng, nên hỏi tiếp và được biết vị Đại Sa Môn đang ở “Rừng Trúc”.
Xá Lợi Phất liền đến tìm Mục Kiền Liên nói lại cơ
duyên của mình và nói những lời Tôn giả Ác Bệ đã nói, Mục Kiền Liên nghe rồi
cũng tỏ sáng vô cùng. Hai người hân hoan đem theo một số bạn đến Trúc Lâm xin
xuất gia học đạo, đều được đức Phật thu nhận. Chỉ trong ít ngày cả hai vị đều đắc
A La Hán, được đức Phật ấn khả cho hai vị Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
là thượng thủ bậc nhất.
Sau đó đức Phật gặp Trưởng giả Cấp Cô Độc là người giầu
có bậc nhất tại nước Xá Vệ. Trưởng giả đã phát tâm rộng lớn xây cất Đạo tràng Kỳ
Hoàn ở phiá Bắc Ấn Độ để cúng dàng Ngài và đại chúng Tăng.
5-
Trở về thăm quê hương: Lúc ấy vua Tịnh Phạn (Suddhodana)
nghe tin Ngài đã thành Phật, liền sai sứ giả đi mời Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavathu); nhưng chín lần cử chín sứ giả đi mà không có người nào trở lại,
vì các vị này đến được đức Phật thuyết pháp nghe rồi ở lại xin xuất gia học Đạo.
Tới vị thứ mười tên Tu Đà Di (Kãludãyi), vị này cũng ở lại học đạo, nhưng vẫn
nhớ lời Vua, nên sau khi đắc đạo bèn thỉnh Phật về thăm Vua.
Dọc đường trở về nơi sinh thành trong hai tháng, gặp
người nào đức Phật cũng giáo hóa độ cho hết thảy, khi về tới thành Ca Tỳ La Vệ,
đức Phật chỉ ở lại có bảy ngày, nhưng đã giáo hóa tất cả hoàng gia. Tại đây lúc
đầu vì có sự nghi ngờ của các bậc cao niên, nên Ngài đã dùng thần thông bay ngồi
trên không, làm lửa và nước từ toàn thân phát ra. Sau đó có nhiều vị trẻ trong
hoàng gia theo Ngài xuất gia tu đạo, như Nan Đà, A Nan Đà, A La Luật, La Hầu La
là con ruột của Ngài lúc ấy mới bảy tuổi, v.v…
Không bao lâu sau, đức Phật biết Vua cha bệnh sắp qua
đời liền về thăm, thấy Vua buồn rầu, Ngài nói về lý “vô thường, khổ, không, vô
ngã”; nghe xong, gương mặt vui tươi, Vua cất tiếng niệm Phật rồi băng hà nhẹ
nhàng. Sau khi Vua Băng hà, Hoàng hậu Ma ha Bà Xà Ba Đề (Mahã Pajãpaĩ) có con
trai là Nan Đà (Nanda) đã xuất gia, và con gái tên Nan Đề (Nandã) (về sau cũng
xuất gia), bà xin xuất gia lấy tên là Đại ái Đạo. Công chúa Da Du Đà La là vợ của
Thái tử Sĩ Đạt Ta cũng xin xuất gia, Bà Đại Ái Đạo nhờ Tôn giả A Nan xin giùm đức
Phật chấp nhận cho bà được xuất gia và thành lập Ni đoàn với điều kiện phải
tuân thủ giới luật do đức Phật đặt ra.
b)-
Tùy phương tiện:
Trong suốt đời đức Phật hành đạo, không phải lúc nào
cũng thuận buồm xuôi gió, có những lúc Ngài phải đương đầu với những khó khăn
chống đối; sự chống đối này thường là do những đạo sư của những ngoại đạo, tà đạo
mê tín, và ngay cả những người muốn tranh giành ảnh hưởng với Ngài, nhưng tất cả
đều được Ngài giải quyết êm xuôi.
1-
Đối phó với khó khăn: Như có lần bị Bà la môn chửi bới thậm tệ,
Ngài làm thinh không trả lời. Chửi bới một lúc thật lâu không thấy đức Phật phản
ứng gì cả, người ấy hỏi: “Sao ông bị chửi như thế mà không trả lờì?” Ngài hỏi lại
để đáp: “Nếu ông đem tặng qùa cho người khác mà người đó không nhận, qùa ấy thuộc
về ai?”. Người ấy trả lời: “Qùa ấy thuộc về tôi”. Ngài bảo: “Lời ông chửi từ
nãy đến giờ tôi không nghe, không nhận, trả lại cho ông”, lúc đó người ấy mới
thôi chửi. Cũng có trường hợp tương tự như thế, nhưng đức Phật trả lời cách
khác là : “Những lời chửi rủa cũng như người nhổ nước bọt từ miệng phun ra ngược
chiều gió, chỉ làm dơ mặt người nhổ mà thôi”.
Có lần, con gái của ngoại đạo mang cái bụng to tướng đến
la lối trước mọi người rằng “Cái bào thai trong bụng mà tác giả là Sa Môn Cù
Đàm”, và đòi phải giải quyết ổn thỏa; Đức Phật chỉ làm thinh, rồi Ngài dùng thần
thông làm rớt cái bụng giả của cô gái ra, mọi người cười ồ, cô gái xấu hổ cúi đầu
đi mất, không dám nhìn lại.
Trong hạ thứ 20, đức Phật gặp Angulimala là người đã
chặt 999 ngón tay của 999 người. Ngài dùng thần thông khiến kẻ ác không thể đuổi
bắt Ngài được đến kiệt sức mà phải thốt lên: “Sa Môn, hãy dừng lại”. Ngài đáp:
“Ta đã dừng từ lâu, còn ông chưa dừng bước”. Angulimala nói: “Tôi đã dừng rồi,
Sa Môn còn đi, tại sao ông lại nói rằng tôi không dừng, còn ông đã dừng, tại
sao ông nói thế?” Ngài đáp: “Như lai đã dừng luôn và mãi mãi, Như Lai đã dứt bỏ
không còn hành hung một sinh vật nào, còn ông tiếp tục sát hại đồng loại với
bàn tay đẫm máu, vì vậy Như Lai đã dừng và ông chưa dừng”. Nghe đến đó,
Angulimala quăng bỏ hết vũ khí, đi đến gần đức Phật qùy lạy xin Ngài chấp thuận
cho được theo học đạo, và đã được Ngài chấp thuận, sau đó Angulimala tinh tấn
tu hành không bao lâu đắc qủa A La Hán.
2-
Chấn chỉnh Tăng đoàn: Ngay cả trong Tăng đoàn, cũng có nhiều vấn
đề, như lúc đầu Tăng chúng ăn uống không có khuôn khổ chừng mực, ăn sáng, ăn
trưa, ăn chiều, ăn tối đủ cả. Đức Phật căn cứ vào những sự phiền hà và sự cần
thiết cho việc tu hành, dần dần Ngài lập ra giới cấm càng ngày càng đầy đủ chặt
chẽ hơn như chỉ ăn mỗi ngày một bữa trước buổi trưa.
Một việc xảy ra do Đề Bà Đạt Đa là em con cô và là em
vợ của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Vì muốn giành quyền đứng đầu Tăng đoàn mà Đề Bà đã
làm nhiều việc không hay đối với đức Phật, như lăn đá trên sườn núi, dùng voi
say, hay bôi thuốc độc vào móng tay để mong hại Ngài, nhưng đều thất bại, đến nỗi
bị chết và đọa vào Địa ngục.
Đối với việc tu hành của tu sĩ, đức Phật đã tùy trường
hợp để chỉ dạy, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối nhất định cho mọi
người. Đối với người thông minh hay đần độn, Ngài đều có những cách khác nhau để
hướng dẫn. Như Tôn giả Chu Lợi Bàn Dặc Ca đần độn tụng một bài kệ bốn câu trong
ba tháng không thuộc, khi sai đầu, khi quên đuôi, đức Phật thấy thế ban cho
cách “đếm hơi thở ra vào lần đầu đếm một, hơi thở ra vào lần thứ hai đếm hai, cứ
thế đếm đến mười, rồi lại đếm từ một đến mười như thế mãi mãi”. Sau đó ít lâu
Tôn giả thấy tâm thanh tịnh không một gợn sóng, v.v…,được Phật chứng cho đạt bậc
Thánh.
Tôn giả Đà La Nan Đà thường hay loạn động vì nghĩ đến
tham dục, đức Phật dạy quán tướng trắng trên đầu chót mũi. Tôn giả La Vân hay
buồn phiền lo nghĩ, đươc đức Phật dạy quán biết hơi thở ra dài biết hơi thở ra
dài, hơi thở vào dài biết hơi thở vào dài, hơi thở ra ngắn hay lạnh, hay nóng,
đều biết hơi thở ra ngắn hay lạnh, hay nóng v.v…; cả hai Tôn giả chỉ trong thời
gian ngắn là đắc qủa A La Hán.
Đối với hết thảy các đệ tử trong khi tu hành ở mọi
nơi, Ngài quán sát mỗi ngày, rồi dùng thần thông đến chỉ bảo.
c)-
Theo tinh thần bình đẳng: Tinh thần bình đẳng là một điểm son
trong giáo lý của đức Phật, trong Tăng đoàn có đủ các thành phần trong xã hội;
từ người thuộc giai cấp cao nhất như hàng hoàng gia quyền bính, Bà la môn qúy tộc,
đến hàng dân giả nghèo nhất đều có mặt tu hành và cùng đạt quả Thánh.
2)-
Hành Đạo hàng ngày:
Chương trình mỗi ngày của đức Phật thật khít khao
không có kẽ hở, từ 5 giờ sáng ra khỏi phòng thất, làm vệ sinh tắm rửa, xong ngồi
quán sát, hoặc đi kinh hành xong quán sát thế gian xem có ai (kể cả các đệ tử ở
khắp các nơi) cần độ trong nhân gian, Ngài dùng thần thông đến liền. Tới 9 giờ
sáng thuyết pháp cho chúng Tăng. Từ 10 hoặc 11 giờ đi khất thực, đi thụ trai nếu
có người thỉnh. Sau khi thọ trai về, Ngài nằm nghiêng bên phải định thần một
lúc, tới 1 giờ chiều, Ngài nhập Đại Bi Định quán sát thế gian. Từ 2 hoặc 3 giờ
chiều thuyết pháp cho thiện nam tín nữ, Ngài dùng Phật nhãn để nhìn vào tâm
tính mỗi người mà tùy căn cơ hóa độ. Từ 7 giờ tối Ngài giảng và giải thích thắc
mắc cho đệ tử đề tài thiền, tới 9 giờ tối, Ngài ngồi quán sát thế gian, có khi
đi kinh hành xong ngồi nhập Đại Định. Từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng, Ngài nhập Đại
Định, rải tâm Từ khắp chúng sinh. Nhiều đêm các vị Trời từ các tầng Trời thường
hay đến chiêm bái và học giáo lý của đức Phật. Tất cả các buổi tham bái ấy đều
xảy ra vào từ nửa đêm đến khoảng bốn giờ sáng. Như có lần Vua Trời Đạo Lợi,
cũng gọi là Đế Thiên Thích, mà người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế đến tham
bái đức Phật trong lúc Ngài đang nhập Định lửa tam muội trong động Nhẫn Đà Bà
Là khiến cả vùng núi Tỳ Đà đỏ rực một màu lửa. Như vậy về đêm Ngài thường nhập
Đại Định và quán sát thế gian, vũ trụ, hoặc tiếp dạy các vị Trời. Từ 4 giờ sáng
Ngài nằm nghiêng bên phải định thần đến 5 giờ sáng.
Mỗi năm đức Phật đi hành đạo giáo hóa suốt chín tháng
không mưa, còn ba tháng mưa, Ngài an cư tại một đạo tràng trong nước Ấn Độ, gọi
là “An cư kiết hạ”.
Suốt 45 năm, dấu chân đức Phật và các đệ tử của Ngài
khắp xứ Ấn Độ, ở đâu Ngài và đệ tử cũng được đón nhận chào mừng; từ hàng vua
quan đến dân giả, từ người già cả đến các trai trẻ, từ nam tới nữ, từ người
giàu đến kẻ nghèo, đều tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và gió mát từ bi do Ngài
ban rải khắp cùng. Nơi nào có mặt Ngài và đệ tử Ngài, là nơi đó tà giáo, ngoại
đạo lui xa, tan biến như bóng tối, sương mai trước ánh mặt trời hiện.
3)-
Các thời nói Kinh:
Sự nói Kinh được các Phật tử sau này chia ra làm năm
thời như sau:
1- Thời thứ nhất: Đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, khi mới
thành đạo. Ngài nói Kinh này để vạch chân tánh, chỉ rõ chỗ cao siêu nhiệm mầu của
Đạo Phật
2- Thời thứ hai: Đức Phật nói Kinh A Hàm, thời kỳ này
dài 12 năm đầu để dạy về tự tu, tự độ cho mình.
3- Thời thứ ba: Đức Phật dạy Kinh Phương Đẳng, thời
này dài 8 năm kế. Đức Phật nói: “Đã tự độ rồi, còn phải độ tha”, tức là độ mình
và độ cho người, trình độ các đệ tử cao hơn một bậc.
4- Thời thứ tư: Đức Phật nói Kinh Bát Nhã, thời này
kéo dài 17 năm; tới thời này, trình độ dạy giáo thuyết cao hơn nữa, tiến tới
giáo thuyết chân không, vũ trụ, thật tướng, vô tướng của các pháp.
5- Thời thứ năm: Đức Phật nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn,
thời kỳ này dài 8 năm; khi ấy các đệ tử Phật đã thuần thục, có thể gánh vác việc
đạo, nên Ngài giảng việc thị hiện vì bản nguyện “Khai thị chúng sinh nhập tri
kiến Phật”. Ngài thụ ký cho 1250 đệ tử sẽ thành Phật tùy căn cơ mỗi người mà thọ
ký mau hay lâu, và việc thuyết pháp độ sinh của Đức Phật đã đầy đủ viên mãn.
4)-
Đức Phật nhập Niết Bàn:
1-
Đức Phật tuyên bố nhập Niết Bàn trước ba tháng:
Việc độ chúng sanh đã viên mãn, Ngài chứng tỏ cho mọi người: “Xác thân vô thường”,
vì xác thân do bốn đại: “đất, nước, gió, lửa” tạo thành trở về với bốn đại,
cũng như chiếc xe lâu ngày phải cũ hư. Đó là lý vô thường đương nhiên phải như
thế, cái còn lại là giáo lý chân thật, bất hư mà đức Phật đã giảng dạy trong suốt
45 năm; giáo lý chân thật đầy đủ cho mọi người theo đó học hỏi hành trì để đạt
được chân lý giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
2-
Đức Phật nói Kinh Di Giáo: Ngài dặn Tôn giả A Nan là Thị giả của
Ngài rằng: “Sau khi Ta Nhập Niết Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với
chính pháp, đừng thắp lên với giáo pháp nào khác. Hãy nương tựa nơi chính mình,
đừng nương tựa với một pháp nào khác”, Ngài nói tiếp: “Ái ân là vô thường, nếu
có xum hợp, phải có chia lià; nhất là thân này không phải ta, mạng sống không tồn
tại mãi mãi được”.
3-
Đức Phật nhập Niết Bàn: Ngài nhập Niết Bàn tại rừng Ta La nước
Câu Thi La giữa hai cây Long Thọ vào nửa đêm ngày mồng 8 tháng hai âm lịch, năm
543 trước Dương lịch. Sau đó được dân chúng Mạt La thành Câu Thi cùng các đệ tử
Phật cúng dàng thân Phật, rồi trà tỳ (thiêu) và chia Xá Lợi Phật cho 8 (tám) nước
rước về xây tháp để mọi người chiêm bái, cúng dường.
III
)- Trí huệ siêu việt của đức Phật.
Để biết về trí huệ của đức Phật Thích Ca, chúng ta nên
lược trích Kinh Hoan hỷ trong Trường A Hàm, quyển 1 trang 607. Tôn Giả Xá Lợi
Phất nói ra một số trong muôn sự tuyệt vời vô thượng của đức Phật như sau:
Một thời, đức Phật ngự tại rừng Ba bà lợi am bà, xứ Na
lan đà, có đầy đủ 1250 vị Tỳ kheo. Khi ấy, Tôn giả Xá lợi Phất bạch Phật:
- Khi con ở trong tinh thất một mình nghĩ rằng “các Sa
môn, Bà la môn trong qúa khứ, hiện tại, vị lai, về phương diện trí huệ, thần
thông, công đức, đạo lực, không một ai bằng đức Thế Tôn, chứ đừng nói là hơn”.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá lợi Phất:
- Lành thay, lành thay, Ông ở trước Như Lai nói lên lời
như vậy, đồng thời thụ trì, chính Ông đã rống tiếng rống sư tử. Thế nên Sa môn,
Bà la môn không ai bằng Ông.
Nhưng này Xá lợi Phất, Ông có biết được tâm niệm chư
Phật qúa khứ, chư Phật hiện tại trong mười phương có giới, có pháp, có trí huệ,
giải thoát, an trú giải thoát như thế nào không?
- Bạch Thế Tôn, con không biết.
- Tâm niệm chư Phật qúa khứ hiện tại vị lai trong mười
phương Ông chẳng thể biết; tại sao Ông khởi lên ý nghĩ như vậy? Do nguyên nhân
nào khiến Ông sinh ý nghĩ ấy? Liệu các Sa môn, Bà la Môn có tin lời Ông nói
không?
- Thưa Thế Tôn, con ở trong qúa khứ hiện tại vị lai,
tuy về tâm niệm chư Phật con không biết được, nhưng về pháp (giáo lý) tổng tướng
của Như Lai con có thể biết được. Thế Tôn vì con nói pháp hắc bạch (trắng đen),
pháp nhân duyên, pháp đối chiếu, pháp cao xa vi diệu. Con nghe xong biết mỗi
pháp đều ở trong pháp cứu cánh, đồng thời con tin đức Như lai là bậc chí chân Đẳng
Chính Giác khéo phân biệt các pháp là tối thượng.
Đức Thế Tôn nói pháp “chế ngự vô thượng” như Bốn Niệm
Xứ, Bốn Chính Cần, Bốn Thần Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tám
Thánh Đạo. Vì thế cho nên trí huệ của Thế Tôn thật tuyệt vời, thần thông tuyệt
vời, từ hàng Sa Môn Bà la môn không ai bằng đức Như Lai, huống là muốn hơn.
Ba là Đức Thế Tôn nói pháp vô thượng về “thức nhập
thai”. Có bốn hạng nhập thai: Một là hạng không biết mình nhập thai, không biết
mình ở trong thai, không biết mình ra khỏi thai; hầu hết mọi người ở hạng này.
Hai là hạng biết mình nhập thai, nhưng không biết mình ở trong thai và không biết
mình ra khỏi thai. Ba là hạng biết mình nhập thai, biết mình ở trong thai,
nhưng không biết mình ra khỏi thai. Bốn là hạng biết mình nhập thai, biết mình ở
trong thai, và biết mình ra khỏi thai; vì thế, đức Thế Tôn có trí huệ tuyệt vời,
có thần thông tuyệt vời, không một ai ngang bằng huống là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “tha tâm thông”vô thượng, có người
chẳng suy nghĩ, chẳng nghe phi nhân mách bảo, chẳng tự nghiệm thân mình, cũng chẳng
nghe người khác nói, mà quán sát thẳng người khác, quán sát và nói: “Tâm người
này thế này, tâm người kia thế kia”. Quán sát như thế mới là chân thật.Thế nên
pháp này là tối thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không ai bằng
đức Thế Tôn, chứ đừng nói là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “giải thoát trí” vô thượng, do
nhân duyên, đức Thế Tôn nói “người này đắc quả Tu đà hoàn, người kia đắc quả Tư
đà hàm, A na hàm, A la hán”; thế nên pháp này là vô thượng, trí huệ tuyệt vời,
thần thông diệu dụng, không một ai bằng đức Thế Tôn, huống là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “túc mệnh thông” vô thượng, khiến
người thực hành nhập định ý tam muội, họ nhớ một đời, hai đời, ba đời, mười đời,
trăm đời, nghìn đời, vô số đời. Đời nào tên gì, bố mẹ ra sao, sống như thế nào,
làm nghề gì, vợ con ra sao, tuổi thọ thế nào v.v… đều nhớ biết tất cả; thế nên,
pháp này là vô thượng, không có ai bằng đức Thế Tôn, đừng nói là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “sinh tử thông” vô thượng, có người
tu tập dùng định ý tam muội, do tâm nhập định, vị ấy quán sát các chúng sinh,
thấy rõ sự chết sinh của họ đều theo nghiệp đã tạo, nên có kẻ xấu người đẹp, có
kẻ sinh vào chỗ khốn nạn, có người sinh vào chỗ sung sướng. Thấy rõ tất cả đều
do thân làm, miệng nói, ý nghĩ lành ác mà vào chỗ tốt hay chỗ xấu; thế nên,
pháp này là vô thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không một ai có
thể ngang bằng đức Thế Tôn, huống nói là muốn hơn.
Lại nữa, đức Thế Tôn nói pháp “Như ý túc thông” vô thượng,
có đệ tử học, dùng phương tiện nhập định tam muội, do tâm nhập định, nên tạo vô
số thần lực. Vị ấy có thể biến một thân thành vô số thân, vô số thân hợp lại một
thân. Đi qua tường vách núi sắt đá không trở ngại, đi trên mặt nước như đi trên
đất, đi trong đất như lặn xuống nước, đi trên không như chim bay; vị ấy có thể
phát ra khói, ra nước như mưa, ra lửa cháy hừng hực, lại có thể biến thân hình
cao lớn tới trời Phạm, dơ tay sờ mặt trăng mặt trời; thế nên, tất cả trời người
trong quá khứ, hiện tại, vị lai, không ai bằng đức Thế Tôn, huống là muốn hơn.
Chỉ có chư Phật qúa khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật tương lai trong mười
phương là bằng đức Như Lai mà thôi.. . .
IV
)- Sự Cung Kính Đức Phật:
Từ hàng vua quan đến dân giả đối với đức Phật thế nào?
Chúng ta tóm luợc Kinh Trang nghiêm trong Trung A Hàm quyển 4 từ trang 667 đến
680 về sự cung kính của hàng vua quan dân giả đối với đức Phật như sau:
Khi đức Phật du hóa tại Di Lũ Ly nơi dòng họ Thích, có
Vua Ba Tư Nặc nước Câu Tát La cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến viếng đức Phật.
Khi tới nơi, Vua ba lần xưng tên họ, rồi đến qùy lễ lạy sát chân Phật một cách
cung kính, xong ngồi qua một bên Phật. Bấy giờ đức Phật hỏi Vua:
- Này Đại Vương, Đại Vương là Vua nước Câu Tát La, Đại
Vương thấy biết gì nghĩ gì mà tự hạ mình cung kính lễ dưới chân Ta như vậy?
Vua Ba Tư Nặc thưa:
- Con có pháp tịnh đối với Thế Tôn nên con cung kính.
Con nghĩ rằng: “Như Lai, bậc Chính Đẳng Giác giảng dạy thật là toàn Thiện”.
Bạch Thế Tôn, khi con ngồi trên ngôi Vua tại Thủ đô,
con nhìn thấy cảnh: mẹ con, cha con, vợ chồng, anh chị em, họ hàng quyến thuộc
cãi cọ, nói xấu, tranh chấp, giành giật, gây thương tổn, giết hại nhau vì đủ thứ
chuyện. Những người thân với nhau mà còn như thế, huống là người ngoài, không
thể nói hết được sự phiền khổ; còn ở đây, con thấy đệ tử của Thế Tôn gồm đủ các
thành phần trong xã hội, lại đông đảo như thế, đều theo Thế Tôn tu hành, không
tranh cãi, không thù oán nhau. Nếu có người xả giới bỏ đạo, người ấy cũng không
nói xấu Phật Pháp Tỳ Kheo (Tăng), mà chỉ tự trách mình rằng: “Tôi xấu xa thiếu
đức hạnh, vì tôi không thể theo trọn đời tu phạm hạnh (khuôn phép)”. Đó là pháp
tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Con thấy một số Sa môn, Phạm chí, Dị học đã ít nhiều học
phạm hạnh năm mười tháng, nhưng lại xả bỏ, bị ô nhiễm bởi dục, bị dục trói buộc,
dính chặt dục, sống trong dục lạc. Còn đệ tử của Thế Tôn tự nguyện trọn đời tu
đạo, con không thấy có một Tôn sư nào có được các đệ tử cùng sống tu hành bền vững
như dưới mái nhà của Thế Tôn, đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Con thấy một số Sa môn, Phạm chí, Ni Kiền thân thể gầy
còm tiều tụy xấu xí, thân nổi vẩy trắng, không ai muốn nhìn. Con tự nghĩ: “Các
Tôn giả này vì sao thân thể như thế? hoặc vì bệnh hoạn, hoặc vì lén lút làm việc
xấu, cho nên thân hình ốm o tiều tụy xấu xí, thân nổi vảy trắng, không ai muốn
nhìn.” Con hỏi họ: “Tại sao như thế?”, họ trả lời: “Đại Vương, đây là ốm yếu gầy
còm tiều tụy vảy trắng!”. Ngược lại, con thấy đệ tử của Thế Tôn ăn uống mỗi
ngày chỉ một bữa, vô cầu không sợ, bình thản đoan chính, sắc mặt tươi vui, hình
thể tinh khiết, tu hành nghiêm chỉnh. Con tự nghĩ: “Nếu ăn uống, dục lạc đầy đủ
mà được hân hoan đoan chính, sắc mặt tươi vui, thì con phải được như thế trước
nhất, nhưng không phải”. Đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế Tôn.
Lại nữa, con thấy một số Sa môn, Phạm chí, Dị học tự
xưng thông minh trí tuệ, thuộc làu Kinh điển, chế phục cường địch, đàm luận
thông suốt, danh tiếng đồn khắp, phá tông chỉ của người khác dễ dàng. Họ nói rằng:
“Chúng ta hãy đến chỗ Sa môn Cù Đàm hỏi những điều thế này, nếu Ông ta trả lời
được, ta hỏi vặn thế kia, nếu không trả lời được, ta bỏ đi”. Họ nghe Thế Tôn du
hóa tại làng nọ, rừng kia, bèn tìm đến, nhưng khi gặp mặt, họ lại không dám mở
miệng nói, huống là dám hỏi vặn ư?
Có người dám hỏi được Thế Tôn trả lời rõ ràng, nghe
xong họ rất vui mừng phấn khởi, cúi đầu lễ sát chân Thế Tôn, đi nhiễu quanh ba
vòng rồi lui; có người sau khi nghe Thế Tôn giảng, vui mừng phấn khởi, liền lễ
lạy sát chân rồi tự xin quy y Thế Tôn (Phật) Giáo lý (Pháp) và Tỳ Kheo (Tăng).
Có người sau khi nghe Thế Tôn giảng dạy, vui mừng phấn
khởi xin xuất gia được làm Tỳ Kheo học đạo tu hành, tinh cần tu tập, ngay trong
đời hiện tại tự thân chứng ngộ, đạt Vô thượng phạm hạnh. Khi Tôn giả ấy biết
pháp, chứng qủa A La Hán rồi, liền nói rằng: “Này chư Hiền, trước kia khi chưa
gặp Thế Tôn, tôi gần suy vong hủy diệt, vì sao vậy? Vì trước kia tôi không phải
là Sa môn, lại tư xưng là Sa môn, không phải là Phạm hạnh lại tư xưng là phạm hạnh
(khuôn phép), bây giờ tôi mới thật sự là Sa môn phạm hạnh”. Đó là pháp tịnh mà
con cung kính đối với Thê Tôn.
Lại nữa, con tư do trong nước con, muốn làm gì cũng được.
Dù quyền lớn như thế, nhưng con ngồi chủ tọa việc nước vẫn không được tự do
nói: “Các Khanh hãy im, không ai hỏi các Khanh, mà chính là hỏi nơi ta; các
Khanh không thể quyết đoán việc này, chỉ có ta mới quyết đoán được việc này”,
nhưng vẫn có người bàn cãi việc khác không đợi người khác nói xong. Thế mà
trong khi Thế Tôn thuyết pháp có đại chúng vây quanh, con đã thấy có lần có người
ngủ gục phát tiếng ngáy, người bên cạnh nói: “Ngài chớ có ngáy gây tiếng động,
Ngài không muốn nghe Thế Tôn thuyết pháp như nước cam lộ chăng?” Người kia nghe
tức thì tỉnh táo. Con nghĩ Thế Tôn thật là kỳ diệu, là bậc Điều Ngự đại chúng,
thật là hy hữu kỳ diệu, vì sao? Vì Thế Tôn không dùng dao gậy, tất cả đều đúng
như pháp mà được an ổn khoái lạc. Đó là pháp tịnh mà con cung kính đối với Thế
Tôn.
Lại nữa, Đại thần Tiên Như , và Túc Cựu, là hai Đại thần
đứng đầu triều đình, phụ tá cho con. Con rất qúy mến, tin cẩn, cung cấp đầy đủ
cho họ, nhưng con không thể khiến họ cung kính con như họ cung kính Thế Tôn. Có
một lần xuất chinh cùng bốn quân binh, đêm đến hai Đại thần cùng ở chung nhà với
con tại một làng nọ. Tối đến, con thấy hai vị này đầu đêm ngồi Thiền định tĩnh
tâm, tới lúc ngủ, họ nằm đầu hướng về phiá nơi Thế Tôn ngự, còn chân thì quay về
phiá con. Thấy thế, con nghĩ: “Hai Đại thần này không cung kính ta như cung
kính Thế Tôn”. Đó là pháp tịnh mà con có thể trọn đời hạ ý cung kính, tôn trọng
cúng dàng, phụng sự Thế Tôn, vì được gần gũi bậc Chính Đẳng Giác giảng dạy giáo
pháp toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, không gì hơn được nữa.
V
)- Kết luận về đức Phật:
1)- Đức Phật có đủ sáu Đại:
1-
Đại Hùng, Đại Lực: Sau 6 năm chịu đựng biết bao gian khổ thử
thách, đức Phật đã chiến thắng vẻ vang. Những vị anh hùng trong nhân loại, đã
có ai chiến thắng được nội tâm mình, có ai chiến thắng được lòng ái dục của
chính mình?; cho nên, chiến thắng người đã khó, mà thắng mình lại càng khó hơn.
Ngài xứng danh là bậc Đại Hùng Đại Lực.
2-
Đại Từ, Đại Bi: Đức Phật không vì mình, bỏ hết tất cả,
mà vì chúng sanh, vì tình thương nhân loại, muốn cho chúng sinh thoát khổ được
vui, nên đã đi tìm chân lý, Ngài xứng với danh hiệu Đại Từ Đại Bi.
3-
Đại Hỷ, Đại Xả: Đức Phật bỏ hết để dấn thân vào cảnh
cùng cực khổ sở, nhưng không thấy khổ, chẳng hề hối tiếc muốn quay lại đời sống
vương giả, Ngài xứng với danh hiệu Đại hỷ Đại Xả.
2)-
Các điều Phật dạy cần ghi nhớ:
Đức Phật như hoa sen thơm, từ bùn nhơ lên không nhiễm
mùi bùn, Ngài không bao giờ tự gọi hay cho người khác gọi Ngài là “Đấng Cứu Thế”;
Ngài kêu gọi mọi người tự giải thoát lấy mình, vì mỗi người đều có trong sạch
và bùn nhơ, nếu diệt hết bùn dơ rồi, chỉ còn trong sạch, tức là giải thoát vậy.
Là người phủ nhận Thần linh, nhưng không có ai có đặc
tính Thần linh hơn đức Phật. Biết bao sự việc xảy ra từ khi thành đạo tới lúc
nhập Niết Bàn đã chứng tỏ Thần linh của Ngài thật quảng đại, tuyệt vời, không
thể nghĩ bàn, nhưng chẳng bao giờ Ngài tự xưng là Thần linh.
Thay vì đặt mình vào Thần linh vạn năng để cho Trời
Người khép nép sợ sệt, đức Phật đã chứng tỏ cho tất cả Trời Người đều có thể đạt
qủa tối thượng như Ngài bằng sự cố gắng của mình.
Đức Phật chống đối sự phân chia giai cấp vì sẽ làm cản
trở bước tiến của loài người, Ngài chủ trương bình đẳng, chê bai chế độ nô lệ,
lên án phong tục cổ hủ, giết súc vật cúng Thần linh, Ngài chủ trương cứu giúp tất
cả chúng sinh.
Đức Phật khuyên mọi người không nên tin mù quáng, dù
đó là do niềm tin của cha ông truyền lại, dù đó là do phong tục, sách vở; dù đó
là lời của đại sư nói, mà phải suy xét thực hư, nghiên cứu, suy niệm bởi chính
mình.
Mỗi lời dạy của đức Phật là: một bài học vô cùng qúy
giá chúng ta nên học và hành, những ai trên thế giới này không biết đến những lời
dạy của Ngài, thật là thiệt thòi, đáng thương thay, vì được làm người thật là
khó.
Trải qua đã trên 2500 năm rồi, nhưng gương sạch của đức
Phật vẫn như mặt trời chiếu sáng cho tới khi đức Phật Di Lặc ra đời. Hiện tại,
không có một ánh sáng nào của một ai trội hơn hay bằng Ngài được. Đức Phật đã
nói ra giáo lý chân thật, trong sáng, dễ hiểu. Thực hành đạt được kết qủa, và
đã có biết bao nhiêu người đã làm theo đạt tới đích chân lý ấy. Ngài đã sống cuộc
đời gương mẫu, cao cả, không quản ngại gian nan vất vả trên mọi nẻo đường tại xứ
Ấn Độ để giáo hóa chúng sanh và độ cho được giải thoát khỏi khổ đau. Lòng
thương của đức Phật là vô lượng, ân đức ấy là vô biên. Bởi vậy, để trả ân ấy một
phần nào, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải:
1-
Nên theo gương sáng của đức Phật:
Sự hy sinh cao cả, từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt của
đức Phật không những là gương sáng cho Phật tử, mà còn cho tất cả mọi người dù
không phải là Phật tử. Nếu quan niệm đức Phật là siêu nhân, thì Ngài là một
siêu nhân cao hơn tất cả các siêu nhân của nhân loại, cho nên Ngài phải được mọi
người kính nể, tôn sùng và chiêm ngưỡng.
2-
Tín đồ nên nhớ những lời di chúc:
Là Phật tử, ai cũng biết các lời dạy của đức Phật là
qúy báu, nhưng nếu chúng ta không học hỏi và thực hành thì cũng vô ích, Ngài dặn:
“Tất cả đều tan rã, chỉ có chân lý là bất di bất dịch, là qúy. Hãy tinh tấn lên
để giải thoát”…
(Theo Toàn Không – thuvienhoasen.org)
Nhận xét
Đăng nhận xét