NGHỆ THUẬT CHÁNH NIỆM - Thiền sư Thích Nhất Hạnh
NGHỆ THUẬT CHÁNH NIỆM
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Nhiều công ty lớn biết dành những khoản đầu tư đáng kể cho bộ
phận Nghiên cứu và Phát triển vì họ biết rằng muốn công ty phát triển thì phải
cải tiến không ngừng và nhạy bén nắm bắt thông tin. Điều này cũng đúng với
“nghiệp vụ” chế tác chánh niệm: chúng ta cần phải “đầu tư” vào việc phát triển
tuệ giác để được dẫn dắt, bảo vệ, và đi đúng đường.
Tất cả đều liên hệ với nhau. Thân tâm mạnh khỏe an lạc, gia
đình yên vui là điều kiện thiết yếu cho sự thành công trong sự nghiệp. Bảo trọng
thân tâm, giữ thân tâm luôn mạnh khỏe, an lạc là đầu tư căn bản nhất. Chúng ảnh
hưởng đến gia đình và môi trường làm việc, nhưng trước hết, chúng làm đẹp cho
cuộc sống.
Chánh niệm là sự đầu tư căn bản, là chìa khóa giúp ta nhìn
vào đời sống nghề nghiệp. Chánh niệm là năng lượng của sự tập trung tâm ý (định
lực), là khả năng có mặt một trăm phần trăm cho những gì đang xảy ra trong ta
và chung quanh ta, là phép lạ giúp ta thực sự sống trọn vẹn từng giây phút và
cũng là yếu tố căn bản để chữa lành, chuyển hóa và tạo an hòa trong gia đình,
nơi làm việc và trong xã hội. Hoa trái của sự tu tập chánh niệm là nhận biết rằng
an lạc có sẵn trong ta và chung quanh ta, ngay bây giờ và ở đây. Chánh niệm là
một trong năm nguồn năng lượng tâm linh, đồng thời cũng là nền tảng cho những
hành động phản ảnh quyền lực đích thực. Nếu không biết tạo nên một môi trường
chánh niệm trong gia đình hay ở nơi làm việc, ta sẽ chỉ đầu độc thêm cho cuộc sống
của mình và gia đình mình mà thôi. Nhiều nhà doanh nghiệp đã nhận ra sự thật
đó.
Không có chánh niệm, ta khó cảm thấy thỏa mãn hoàn toàn với
quyền lực kinh tế hay chính trị. Chánh niệm giúp ta trở về tự thân và nhìn sâu
vào hoàn cảnh của mình. Chúng ta làm việc, nhưng chúng ta cũng đem tới chỗ làm
những khó khăn, những niềm đau nỗi khổ riêng tư. Chánh niệm giúp ta ôm ấp và hiểu
rõ đau khổ. Chánh niệm là căn bản chuyển hóa và chữa trị.
Vậy thì làm sao để có chánh niệm? Đây là một thực tập rất
đơn giản nhưng cũng đầy thử thách. Thực tập chánh niệm đòi hỏi khi làm bất cứ
việc gì cũng làm hết lòng, đầu tư một trăm phần trăm tâm ý vào cả những việc
đơn giản nhất như nhặt một cây bút, mở một cuốn sách hay thắp một nén hương.
Khi còn là một chú tiểu, tôi phải thắp hương trong chính điện nhiều lần trong
ngày. Tôi đã được dạy là phải cầm cây hương lên bằng hai tay, tay trái đặt lên
tay phải. Cây hương rất nhẹ, tại sao lại phải dùng cả hai tay? Lý do là tôi phải
chú tâm một trăm phần trăm vào sự việc đơn giản là cầm nén hương trong tay. Khi
quẹt một cây diêm và châm cây hương vào ngọn lửa, tôi cũng phải để tâm một trăm
phần trăm. Đó là thực tập chánh niệm.
Khi uống trà, hành động rót trà vào chén cũng là một hành động
thiền tập nếu ta rót trà trong chánh niệm. Đừng nghĩ tới quá khứ. Đừng nghĩ tới
tương lai. Đừng lo phải làm gì ngày mai. Hãy chỉ chú tâm vào việc rót trà. Hãy
đầu tư một trăm phần trăm vào giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây. Ai cũng biết
rót trà, ai cũng biết uống trà, nhưng mấy ai biết rót trà trong chánh niệm và uống
trà trong chánh niệm? Lý do là vì chúng ta luôn có xu hướng quên lãng hiện tại,
vì chúng ta bị tập khí lôi cuốn. Tập khí là một thói quen, năng lượng của nó rất
mạnh mà chúng ta phải thực tập để chuyển hóa. Càng chế ngự được tập khí thì
chúng ta càng có khả năng sống trọn vẹn mỗi ngày.
Trong công việc, ta có thể cảm thấy có trách nhiệm với những
ai đó, hay chỉ với riêng mình. Ý thức trách nhiệm là tốt. Ta cũng muốn thành
công trong công việc, nhưng vì thiếu chánh niệm cho nên ta để cho ước muốn
thành công cuốn hút. Ước muốn ấy sẽ trở thành một tập khí, thúc đẩy ta, làm ta
không còn khả năng uống trà trong giây phút hiện tại, ngay cả khi nước trà đã
vào miệng mà ta cũng không ý thức. Ta đang uống những dự án, những lo âu, những
khó khăn của mình.
Theo lời Bụt dạy, sự sống chỉ có mặt trong hiện tại, ngay
bây giờ và ở đây. Bụt nói: “Quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến. Ta chỉ
thực sự sống trong giây phút hiện tại.” Nếu đánh mất hiện tại thì sẽ đánh mất sự
sống. Quá rõ ràng. Chánh niệm là một nguồn năng lượng và thực tập chánh niệm sẽ
giúp ta trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với sự sống. Phép thực tập
này đòi hỏi thời gian và sự nâng đỡ. Thiếu thời gian thực tập và không có môi
trường thuận lợi thì khó mà thành công. Có khi đồng nghiệp của ta cũng muốn
cùng ta thực tập nếu họ được truyền cảm hứng.
Bạn có thể có một ngôi nhà rất đẹp và một khu vườn đầy hoa.
Bạn biết là trong vườn của mình có hoa, nhưng bạn lại không có thì giờ để thưởng
thức. Bởi vì tâm trí bạn đang bị ám ảnh bởi những thắc mắc cần giải đáp, những
vấn đề cần giải quyết. Bạn muốn bạn là “số một.” Thỉnh thoảng chắc bạn cũng đã
thoáng giác ngộ rằng bạn có một vườn hoa rất đẹp và phải dành chút thì giờ để
thưởng thức. Đó là do thiện chí. Rồi bạn ra vườn đi dạo, ngắm những nụ hoa đẹp,
nhìn thảm cỏ xanh. Nhưng chỉ sau vài bước bạn đã bỏ cuộc, vì bạn đang có quá
nhiều bận tâm về công việc. Như một nhà độc tài, mối bận tâm đó không cho bạn
cơ hội tiếp xúc và thưởng thức những mầu nhiệm của sự sống bây giờ và ở đây.
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy
tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm. Một hôm Thầy sai tôi đi
làm một việc. Tôi hăng hái, hấp tấp, đi nhanh ra và khép cửa vội vàng. Thầy kêu
tôi lại: “Này con, con lại đây.” Tôi trở lại, đứng vòng tay chờ. Thầy tôi nói:
“Con đi ra lại và khép cửa cho đàng hoàng coi.” Đó là bài học đầu tiên của tôi
về thực tập chánh niệm. Khi đó tôi đi ra trong chánh niệm, ý thức từng bước đi,
nắm lấy cánh cửa trong chánh niệm, và mở cửa trong chánh niệm. Kể từ đó Thầy
tôi không còn phải dạy tôi cách đóng cửa lần thứ hai.
Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào
bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy quên hết tất cả.
Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức trong khi nắm tay, trong khi ôm. Điều này
trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây. Chúng ta từng có
thói quen làm nhiều việc cùng một lúc. Vừa trả lời e-mail vừa nói điện thoại.
Trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án
khác. Kỹ thuật hiện đại hứa hẹn sẽ giúp ta làm được nhiều việc cùng một lúc.
Bây giờ, chỉ với một máy nhỏ chúng ta có thể gửi e-mail, nghe nhạc, điện thoại,
và chụp hình. Năng lượng bị phân tán như thế thì còn gì là năng lượng?
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói
quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập. Ta rất thông
minh và hiểu ngay như vậy, nhưng như thế không có nghĩa là ta có thể làm được
ngay. Ta phải thực tập và tự rèn luyện mỗi ngày.
Trước hết, phải thực tập chánh niệm để thấy được bản thân, sau
đó ta chú ý tới gia đình của mình vì gia đình là tổ ấm. Không thể chỉ quan tâm
đến nghề nghiệp mà sao lãng gia đình được. Có thể gia đình ta đang có đau khổ,
sợ hãi hay lo lắng. Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa
chúng. Bạn có thể nói với chồng mình rằng: “Em biết rằng anh đang đau khổ. Em
đang có mặt cho anh đây. Chúng ta hãy cùng nhau ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và
chuyển hóa chúng.” Bạn cũng nói như vậy với vợ của bạn: “Anh biết rằng em đang
đau khổ. Anh đang có mặt cho em đây. Chúng ta hãy cùng nhau ôm ấp niềm đau nỗi
khổ đó và chuyển hóa chúng.” Chánh niệm là khả năng có mặt một trăm phần trăm.
Khi thương, món quà quý nhất mà ta hiến tặng người ta thương là sự có mặt đích
thực của ta. Ta không thể mua khả năng hiến tặng niềm vui và chuyển hóa khổ
đau.
Sau đó chánh niệm sẽ giúp ta hiểu rõ tình hình tại nơi làm
việc. Dù ở địa vị nào, một giám đốc có hàng trăm nhân viên hay một công nhân
làm việc một mình, với chánh niệm, ta đều có thể quán chiếu và nhận biết ưu điểm
hay khó khăn cũng như đau khổ trong công ty. Ta sẽ nhận diện được những niềm
đau nỗi khổ, những lo sợ của đồng nghiệp hay nhân viên và nói: “Tôi đang có mặt
cho anh, cho chị đây. Tôi biết rằng anh, chị đang đau khổ. Chúng ta sẽ cùng
nhau ôm ấp và chuyển hóa niềm đau nỗi khổ đó. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để giải
quyết khổ đau của chúng ta.” Sự thực tập này chẳng khác gì thực tập cho bản
thân hay cho gia đình mình. Năng lượng của chánh niệm và khả năng nhìn sâu sẽ
giúp ta tìm ra tuệ giác để chuyển hóa tình trạng và chữa lành.
Chánh niệm là khả năng có mặt một trăm phần trăm. Năng lượng
của chánh niệm giúp ta nhận biết những gì đang có mặt chung quanh ta. “Những
gì” đó có thể là chính ta, có thể là người thương của ta. Nếu không có khả năng
trở về với giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, thì không thể nào nhận diện được
chính mình, nhận diện được hạnh phúc cũng như khổ đau của mình. Không có khả
năng có mặt đích thực thì không thể nhìn rõ những người khác và sẽ khiến họ có
cảm giác bị bỏ quên, bị hiểu lầm hay ghét bỏ. Rồi họ sẽ đau khổ và từ đó làm bạn
đau khổ. Nếu không có chánh niệm thì không thể giúp mình hay giúp người, không
thể thành công trong công việc. Nếu không có chánh niệm thì bất cứ quyền lực
nào trong tay cũng chỉ là tạm bợ và không đem lại thỏa mãn rốt ráo.
Chánh niệm rất cụ thể. Khi chú ý tới hơi thở là ta đã có
chánh niệm rồi. Thở vào, ta chú ý tới hơi thở vào từ đầu cho tới cuối và nhủ thầm
“vào”. Thở ra, ta chú ý tới hơi thở ra từ đầu cho tới cuối và nhủ thầm “ra”. Với
hành động đơn giản ấy, thân tâm ta hợp nhất và ta sẽ thực sự có mặt. Chánh niệm
cũng có thể có mặt trong một bước chân. Những lúc bạn bước đi, hãy đầu tư một
trăm phần trăm vào mỗi bước chân và nhớ kết hợp bước chân với hơi thở một cách
tự nhiên. Để ý xem ta bước mấy bước trong mỗi hơi thở vào, mấy bước trong mỗi
hơi thở ra. Để giúp thêm, ta có thể nói thầm “vào”, “ra” khi bước. Ví dụ như
khi thở vào bước ba bước, thì nói thầm “vào, vào, vào”. Khi thở ra bước bốn bước
thì nói thầm “ra, ra, ra, ra”. Nếu thực tập trong nhà thì có thể đi chậm lại, cứ
mỗi hơi thở vào bước một bước, mỗi hơi thở ra bước một bước. Còn thực tập ở
ngoài trời thì tùy theo hơi thở của bạn dài hay ngắn, trong mỗi hơi thở bạn có
thể bước hai, ba, hay bốn bước. Không nên cố ép hay thay đổi nhịp thở vì làm
như vậy bạn sẽ thấy mệt. Chỉ hoàn toàn chú tâm vào bước chân và hơi thở. Thực tập
này rất đơn giản nhưng hiệu quả vô cùng. Nhờ bước chân chánh niệm, hơi thở
chánh niệm mà ta có thể trở về với tự thân, thực sự có mặt và tỉnh thức.
Phải hiểu chánh niệm trên bình diện vật lý. Thực tập trở về
với cơ thể, trước hết, ta phải chế tác chánh niệm bằng hơi thở ý thức và bước
chân ý thức, rồi sau đó nhận diện rằng cơ thể ta đang có đây và ta dịu dàng ôm ấp
lấy cơ thể mình bằng chánh niệm. “Cơ thể ta ơi, ta biết ngươi có đó và ta sẽ
săn sóc cho ngươi.” Cơ thể ta trở thành đối tượng thương yêu của ta.
Nếu không biết cách chăm sóc, không biết cách buông thư cơ
thể, không để cho cơ thể có cơ hội nghỉ ngơi tức là ta đã không thương yêu cơ
thể mình. Ta biết rằng cơ thể ta có khả năng tự chữa lành vết thương. Khi đứt
tay ta biết rằng chỉ cần làm sạch vết thương và cơ thể ta sẽ tự lo liệu. Ta có
thể hoảng sợ nếu quên đi rằng cơ thể ta có khả năng tự điều trị. Chỉ cần có cơ
hội nghỉ ngơi là cơ thể có thể tự chữa lành mà chẳng cần thuốc men gì nhiều.
Khi một con vật bị thương nặng, nó biết phải làm gì. Nó tìm
một chỗ vắng, nằm thật yên, nghỉ ngơi hoàn toàn trong vài ngày, không ăn uống
gì hết. Nó rất khôn ngoan. Chỉ khi nào vết thương lành hẳn nó mới ra săn mồi.
Có lúc, ta cũng có tuệ giác đó, nhưng chúng ta đã đánh mất khả năng biết nghỉ
ngơi. Mới bắt đầu cảm thấy khó chịu ta đã hoảng hốt chạy đến bác sĩ xin đủ mọi
thứ thuốc, chỉ vì ta không biết rằng, để cho cơ thể nghỉ ngơi là phương pháp điều
trị hay nhất.
Có nhiều người than phiền rằng họ không có thì giờ đi nghỉ
hè. Số khác có thể sắp xếp được để đi nghỉ hè, tuy nhiên lại không biết cách
nghỉ ngơi. Chương trình nghỉ hè đầy ắp và sau kỳ nghỉ họ lại càng mệt mỏi hơn.
Chúng ta phải học cách buông thư toàn thân. Trong tư thế nằm,
ta chú ý và buông thư từng phần của cơ thể, bắt đầu từ trên đầu và đi dần xuống
dưới lòng bàn chân. “Thở vào, tôi ý thức toàn thân tôi. Thở ra, tôi buông thư
toàn thân tôi. Thở vào tôi ý thức hai mắt tôi. Thở ra tôi mỉm cười với hai mắt
tôi.” Cứ tiếp tục như thế với từng phần của cơ thể. Thay vì tia X-quang, ta
“soi” cơ thể ta bằng tia Chánh Niệm. Soi đến một phần nào hay bộ phận nào của
cơ thể đang bị đau yếu thì ta dừng lại lâu hơn, sử dụng năng lượng của chánh niệm
để ôm ấp và mỉm cười với phần cơ thể hay bộ phận đó, làm như thế cơ thể sẽ bình
phục mau hơn. Ta tự thực tập như thế mỗi ngày hay với những người trong gia
đình, khi đã quen thuộc rồi, ta có thể hướng dẫn một buổi thực tập thiền buông
thư cho bạn bè hay cả gia đình. Ta cũng có thể khuyến khích những người khác
trong gia đình hướng dẫn buông thư toàn thân như vậy cho mọi người. Trẻ em rất
có khả năng hướng dẫn người khác trong phép thực tập này.
Khi đã có khả năng ôm ấp cơ thể và giải tỏa căng thẳng, giúp
cơ thể phục hồi, ta có thể trở về với tự thân, với những cảm thọ và những tâm
hành của ta (chi tiết của phép thực tập này được trình bày tại Phụ lục A). Mỗi
chúng ta đều có kinh nghiệm về những cảm thọ dễ chịu hay cảm thọ khó chịu. Một
trong những công năng của thực tập chánh niệm là chăm sóc cảm thọ khổ đau. Thường
thường ta không muốn đối diện khổ đau bởi vì ta không biết cách chăm sóc khổ
đau. Ta cũng thường nghĩ rằng nếu tâm đủ mạnh thì ta sẽ không còn cảm thấy đau
khổ, rồi ta tìm cách che lấp khổ đau. Thay vì “thay chốt” và mời lên những hạt
giống tích cực từ vùng tàng thức, ta lại trốn chạy những cảm thọ khó chịu bằng
những hành động tiêu thụ thiếu chánh niệm. Ta bật ti vi lên, hoặc mở một cuốn
sách, hay nhấc điện thoại, hay làm một việc gì đó để che lấp niềm đau nỗi khổ,
sợ hãi, tuyệt vọng đang trấn ngự. Nhưng khi tiêu thụ những sản phẩm để tạm thời
che lấp khổ đau thì ta cũng đồng thời đưa vào thân và tâm những yếu tố độc hại
như tham dục, sợ hãi, lo lắng và làm cho tình thế càng thêm tồi tệ.
Cách hay nhất là ta phải trở về với tự thân. Hãy sử dụng
năng lượng của chánh niệm để nhận diện và ôm ấp niềm đau nỗi khổ trong ta, như
một bà mẹ ôm ấp đứa con mình. Chánh niệm là mẹ, đau khổ, buồn phiền, tuyệt vọng
là con. Giữa mẹ và con không có tranh chấp. Năng lượng của chánh niệm sẽ nhận
diện, ôm ấp và thoa dịu niềm đau. Khi nghe con khóc, người mẹ lập tức buông tất
cả công việc xuống, chạy đến ôm em bé vào lòng. Mẹ có thể không biết lý do đã
làm cho bé khóc, nhưng chỉ cần ẵm bé trong vòng tay với tất cả sự dịu dàng,
thương yêu cũng đủ làm cho bé nín khóc. Cũng thế, ta có thể không biết rõ lý do
đã làm cho ta đau khổ, buồn phiền, tuyệt vọng, nhưng nếu ta biết ôm ấp những khổ
đau đó bằng năng lượng chánh niệm thì tức khắc ta cảm thấy tâm mình lắng yên,
êm dịu lại vì năng lượng của chánh niệm đã hòa nhập vào năng lượng của khổ đau.
Hãy tưởng tượng một đóa hoa trong nắng sớm. Hoa chưa nở
nhưng tia nắng đang ôm ấp hoa, năng lượng mặt trời đang thấm dần vào hoa. Mặt
trời không chỉ chiếu quanh đóa hoa. Tia nắng mặt trời thấm vào hoa một cách tự
nhiên và một giờ sau hoa sẽ bừng nở. Chánh niệm là mặt trời ôm ấp đóa hoa cảm
thọ.
Nếu cứ để mặc, không chăm sóc nỗi sợ hãi, hờn giận, và tuyệt
vọng thì những cảm xúc tiêu cực đó sẽ biến thành sức mạnh tàn phá. Nếu biết chế
tác chánh niệm thì chánh niệm sẽ nhận diện và ôm ấp những cảm thọ khổ đau ấy.
Thực tập hơi thở và bước chân chánh niệm không những nuôi dưỡng, tưới mát thân
tâm mà còn giúp nhận diện và ôm ấp khổ đau. Thay vì sử dụng năng lượng để đè nén
khổ đau, ta hãy sử dụng năng lượng đó để bảo toàn cơ thể. Ôm ấp khổ đau sẽ nuôi
lớn chúng ta.
Nếu được cùng người thương ngồi trong chánh niệm (ngồi thiền),
đi trong chánh niệm (đi thiền) thì sức mạnh của chánh niệm càng tăng gấp bội nhờ
sự đóng góp của năng lượng thực tập từ người thương. “Mời anh/mời em đến đây
cùng ngồi thiền với tôi, thiền hành với tôi. Tôi cần có anh/có em bên cạnh.”
Nghe vậy, người thương sẽ đến, sẽ cùng ngồi, cùng đi với ta. Phối hợp năng lượng,
ta sẽ dư sức ôm ấp khổ đau.
Càng có đông bạn hữu thực tập chung, năng lượng càng thêm mạnh.
Năng lượng tập thể giúp cho sự thực tập ôm ấp niềm đau nỗi khổ dễ dàng hơn nhiều.
Cho nên trong một cộng đồng mà mọi người cùng thực tập với nhau thì càng vui,
hiệu quả lớn gấp bội, và năng lượng ngày càng thêm thâm hậu. Được năng lượng tập
thể ấy bao bọc, ta sẽ thấy khỏe khoắn thêm ra và hiệu quả chữa trị đến rất
nhanh.
Năng lượng chánh niệm giúp ta ý thức những gì đang xảy ra.
Thở vào và biết rằng đang thở vào, đó là chánh niệm về hơi thở. Uống trà và biết
rằng đang uống trà, đó là chánh niệm khi uống trà. Khi đi và biết rằng đang đi,
thưởng thức từng bước chân, đó là chánh niệm khi đi. Những thực tập ấy chế tác
năng lượng chánh niệm, giúp cho ta thật sự tỉnh thức, thật sự có mặt để tiếp
xúc với những mầu nhiệm của sự sống, để được nuôi dưỡng và chữa lành.
Năm Phép Thực Tập Chánh niệm
Một hôm cư sĩ Cấp Cô Độc đưa năm trăm thương gia đến gặp Bụt.
Nhân dịp này Bụt chia sẻ với các vị thương gia ấy một bài pháp mà nội dung được
ghi lại trong “Kinh Người Áo Trắng.” Kinh dạy cho các thương gia và những người
cư sĩ phương pháp sống có hạnh phúc trong giờ phút hiện tại, bây giờ và ở đây.
Cụm từ “hiện pháp lạc trú” được lặp đi lặp lại ít nhất là năm lần trong kinh. Hạnh
phúc lớn nhất là biết mình đang đi trên đường chánh. Hạnh phúc lớn nhất là có
nghề thích hợp, phát huy được tâm hiểu biết, thương yêu. Hạnh phúc, trách nhiệm
và chánh niệm liên hệ với nhau. Một doanh nhân trên đường tạo dựng hạnh phúc phải
chăm sóc bản thân trước nhất. Nhờ thực tập chế tác năng lượng chánh niệm mà có
được hạnh phúc và từ đó có khả năng chăm sóc người khác. Biết bao nhiêu yếu tố
của hạnh phúc đang có sẵn ngay bây giờ và ở đây.
Kinh Người Áo Trắng dạy rằng nền tảng của nếp sống chánh niệm
và hạnh phúc là Năm Phép Thực Tập Chánh Niệm (Năm Giới Quý Báu). Năm phép thực
tập này giúp ta có được quyền lực đích thực, tức là quyền lực tâm linh. Cốt tủy
của sự thực tập chánh niệm chính là Năm Giới Quý Báu này.
Năm phép thực tập chánh niệm (Năm Giới Quý Báu)
Phép Thực Tập Chánh Niệm (Giới) Thứ Nhất: Tôn Trọng Sự Sống
Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học
theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không
giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại,
dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hằng ngày của con.
Phép Thực Tập Chánh Niệm (Giới) Thứ Hai: Tôn Trọng Quyền Tư
Hữu
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất
công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc
cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với
những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của
cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ
khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một
cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loài.
Phép Thực Tập Chánh Niệm (Giới) Thứ Ba: Không Tà Dâm
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học
theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người
và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải
là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chính sẽ gây
ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của
mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ
khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục
gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
Phép Thực Tập Chánh Niệm (Giới) Thứ Tư: Lắng Nghe Và Ái Ngữ
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây
ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người
và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc
khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an
vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ
và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có
thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không
nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều
có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể
Phép Thực Tập Chánh Niệm (Giới) Thứ Năm: Chánh Niệm Trong
Tiêu Thụ
Ý thức được những khổ đau do việc sử dụng ma túy và độc tố
gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm
hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ
tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, cho thân tâm gia đình
và xã hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không
ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố, trong đó có một số sản phẩm
truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn
hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là
phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi
và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho
xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm
thức cộng đồng và xã hội.
Năm Giới Quý Báu là giới tướng cụ thể của thực tập chánh niệm
mà ta có thể áp dụng trong đời sống hằng ngày, tại nơi làm việc hay trong gia
đình. Tinh thần chánh niệm này cũng được tìm thấy trong tất cả các truyền thống
tôn giáo, tín ngưỡng khác như Ki-Tô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo.
Dù truyền thống tôn giáo của bạn không phải Phật giáo, bạn vẫn có thể tìm thấy
những yếu tố của Năm Giới Quý Báu này trong kinh điển hay gốc rễ tín ngưỡng của
bạn. Như thế bạn sẽ hiểu rõ truyền thống của bạn hơn. Bạn không thể hạnh phúc nếu
bị mất gốc rễ.
Những thực tập này không phải do một ai áp đặt mà là kết quả
của công phu tu tập. Ta chấp nhận Năm Giới Quý Báu, bởi vì dưới ánh sáng của
chánh niệm, ta thấy rõ rằng khổ đau sẽ tràn ngập nếu không hành trì Năm Giới
Quý Báu.
Năm Giới Quý Báu không phải là năm điều cấm đoán mà là năm lời
phát nguyện sau khi ta quán chiếu về khổ đau và nguyên nhân của khổ đau. Đây là
một thực tập và là một quyết định phát xuất từ tuệ giác của chính ta. Theo tôi,
Năm Giới Quý Báu là năm thực tập đích thực về tình thương, về tâm từ bi.
Giới Thứ Nhất là thực tập bảo vệ sự sống. Bởi vì tôi yêu sự
sống, bởi vì tôi thương mọi loài sinh vật, cho nên tôi quyết tâm thực tập chánh
niệm, nguyện không tán thành sự giết hại. Vì sự sống là vô cùng quý báu, tôi
nguyện bảo vệ sự sống, không phải chỉ bảo vệ sự sống của con người, mà cả sự sống
của mọi loài khác, nghĩa là sự sống của loài vật, cỏ cây và đất đá, bởi vì sự sống
của con người được làm bằng sự sống của những loài không phải là con người, muốn
bảo vệ con người, ta phải bảo vệ những loài không phải là con người. Đây là
giáo lý của “Kinh Kim Cương,” một tác phẩm vi diệu và xưa nhất về sinh môi. Muốn
bảo vệ con người, ta phải bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, không khí, động vật,
cỏ cây và đất đá. Đây là cốt tủy của Phép Thực tập Chánh niệm Thứ nhất. Nếu muốn
bảo vệ môi trường, xin mời bạn đọc “Kinh Kim Cương,” bạn sẽ thấy rằng bảo vệ
loài vật, cỏ cây và đất đá tức là bảo vệ tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà, trẻ
em. Đây là thực tập thương yêu.
Giới Thứ Hai là thực tập hạnh bố thí. Nơi đâu cũng có nghèo
khổ. Sự chênh lệch giàu nghèo gây nên rất nhiều đau khổ. Vì thế, chúng ta phải
sống thế nào để giảm thiểu đau khổ. Chúng ta nguyện chia sẻ thì giờ và tài lực
với những người thật sự thiếu thốn. Đây là hạnh bố thí đích thực. Chúng ta sống
đơn giản hơn để có nhiều thì giờ giúp những người khác. Chúng ta nguyện không lấy
làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Giới Thứ Hai cũng
là giới thực tập thương yêu.
Giới Thứ Ba là thực tập bảo vệ cá nhân và gia đình. Chúng ta
nguyện không tà dâm và cưỡng bức tình dục. Giới Thứ Ba này cũng là thực tập
thương yêu chân thật. Chúng ta nguyện không ăn nằm với những người không phải
là vợ hay chồng của ta. Nhìn sâu, chúng ta thấy thân và tâm không phải là hai
thực thể riêng biệt, ta không thể tách rời thân và tâm. Kính trọng thân tức là
kính trọng tâm. Nếu thân không được kính trọng tức là tâm không được kính trọng.
Muốn có thương yêu phải có kính trọng. Không có kính trọng thì không thể có
thương yêu chân thực.
Trong xã hội hiện nay, tình dục bừa bãi đang là một hiện tượng
phổ biến; tình dục chỉ với mục đích thỏa mãn xác thịt. Chúng ta lẫn lộn tình
yêu với tình dục. Tình dục không hẳn là tình yêu. Khi yêu, ta trao tặng cho người
yêu những gì quý giá nhất, đó là tấm lòng của ta. Chúng ta đã biết rằng thân
tâm là một. Trong nội tâm ta có những vùng bí ẩn, linh thiêng, có những niềm
đau nỗi khổ, có những ước vọng khát khao – những cấm thành – mà ta muốn giữ
kín. Và chúng ta chỉ có thể chia sẻ những tâm tình sâu kín, chỉ mở cửa cấm
thành cho người ta thương mà thôi.
Đối với thân cũng vậy. Thân thể ta cũng có những tử cấm
thành mà không ai được vào nếu không được phép. Tuệ giác đó đã có sẵn trong
truyền thống văn hóa của ta, nhưng ta đã đánh mất một phần nào sự kính trọng đối
với những vùng linh thiêng của cơ thể ta. Giới Thứ Ba bảo vệ ta cũng như những
người khác, giúp tránh khỏi đau khổ.
Giới Thứ Tư là thực tập truyền thông, thực tập hạnh ái ngữ.
Lời nói có thể có tác dụng rất mạnh nhưng cũng có thể chỉ là “tiếng gào thét
trong hư không”. Chưa bao giờ loài người có nhiều phương tiện truyền thông như
ngày nay: thư điện tử, điện thoại cầm tay, fax, vô tuyến truyền hình, đài phát
thanh, báo chí. Tuy thế chúng ta vẫn là những ốc đảo cô đơn. Truyền thông trong
gia đình, trong xã hội, giữa các quốc gia vẫn rất ít ỏi. Bởi vì chúng ta không
biết cách lắng nghe nhau, chúng ta không có khả năng nói chuyện sao cho có ý
nghĩa. Cần phải khai mở lại cánh cửa truyền thông chân thực. Khi không thể truyền
thông thì ta sẽ bị bế tắc, ta sẽ bệnh. Càng bệnh ta càng khổ và làm cho những
người khác khổ theo.
Lời nói có thể có tác dụng xây dựng hay tàn phá. Lời nói có
chánh niệm có thể đem lại hạnh phúc. Lời nói thiếu chánh niệm có thể hủy diệt sự
sống. Một lời nói nếu đem lại bình an, hạnh phúc là một món quà quý giá nhất mà
ta có thể trao tặng.
Giới Thứ Tư cũng nhắc nhở ta rằng lời nói chánh niệm đi đôi
với hạnh lắng nghe sâu. Chúng ta lắng nghe với tất cả sự chú tâm và lòng từ bi,
thực sự có mặt để lắng nghe. Mục đích duy nhất là giúp người kia cảm thấy yên
tâm mà bộc lộ tất cả nỗi lòng và giải tỏa được khổ đau.
Giới Thứ Tư có liên hệ với Giới Thứ Năm bởi vì Giới Thứ Năm
là thực tập chánh niệm khi tiêu thụ. Tiêu thụ không chỉ là khi ăn mà còn là khi
xem, khi đọc và khi nghe. Nhìn vào cách ta tiêu thụ, người khác có thể đánh giá
được con người của ta. Nếu nhìn sâu vào các thứ ta tiêu thụ hằng ngày, ta sẽ thấy
rõ con người thật của chính ta. Chúng ta cần ăn, cần uống, cần tiêu thụ, nhưng
nếu thiếu chánh niệm khi ăn, uống và tiêu thụ thì ta có thể hủy hoại thân tâm
ta, và phản bội tổ tiên, cha mẹ cùng các thế hệ mai sau.
Phải chánh niệm về những gì ta đưa vào cơ thể và tâm thức.
Hãy tự hỏi, “Hôm nay tôi đã đưa vào thân tâm những độc tố nào? Tôi đã xem phim
gì? Đọc sách gì? Đọc báo gì? Nói chuyện gì?” Chánh niệm là nhận diện những độc
tố của phim ảnh, sách báo, chuyện trò, rồi quyết định kiêng cữ những độc tố ấy.
Hãy tự nhủ: “Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra,
con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng
cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ
những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, cho thân tâm gia đình và xã hội
con.”
Giới Thứ Năm có thể được xem như là một sự cam kết to lớn,
khó thực hiện, và không thuận theo ý muốn của ta. Nhưng cứ bắt đầu thực tập, ta
sẽ thấy cuộc sống thư thái hơn, thấy hạnh phúc hơn. Vậy thì phải hành động ngay
đi. Hãy tu tập theo Chánh Đạo, làm tất cả những gì có thể làm được để bảo vệ và
đem an lạc đến cho tất cả mọi người, mọi loài. Rồi ta sẽ không còn sợ hãi. Cho
dù phải trải qua những lúc khó khăn như bệnh tật, hiểm nguy hay đối mặt với cái
chết thì tâm ta vẫn được bình an. Đó là kinh nghiệm của chính bản thân tôi.
Trong cuộc chiến Việt Nam, tôi biết một quân nhân Hoa Kỳ.
Anh có nhiều thiện chí, anh muốn phục vụ đất nước anh, anh chống cộng nên anh
tình nguyện sang Việt Nam. Nhiệm vụ quân sự của anh là đi giết địch ban đêm. Có
nhiều làng mà ban đêm quân du kích về tuyên truyền. Chính phủ Miền Nam không có
bằng cớ rằng dân làng đã hợp tác với quân du kích, nhưng cơ quan tình báo Hoa Kỳ
cho rằng trong làng có người hợp tác với quân du kích và cần phải tiêu diệt.
Nhiệm vụ của người quân nhân Hoa Kỳ này là ban đêm tới nhà
người bị tình nghi để giết. Anh ta không dùng súng (để tránh gây tiếng động) mà
chỉ giết bằng dao. Sáng ra, dân làng tìm thấy xác người bị tình nghi kia sẽ
nghĩ rằng người này bị du kích giết. Trong thời bình, nếu giết người thì bị ra
tòa. Nhưng trong cuộc chiến Việt Nam thì không có tòa án. Nếu nghi ai là kẻ thù
thì chỉ việc ban đêm tìm tới nhà ám sát, không để lại dấu tích. Ta loại trừ những
ai mà ta nghi là thuộc phe bên kia. Không tòa án, không xét xử, không chi cả.
Nhiều năm sau cuộc chiến Việt Nam, người quân nhân Hoa Kỳ ấy
đã kể cho tôi nghe câu chuyện trên khi ông bị bệnh và sắp từ giã cõi đời. Tôi
đã chứng kiến đau khổ cùng cực của ông trong giai đoạn cuối cuộc đời. Không chỉ
đau nhức trong thân mà còn đau khổ tột cùng trong tâm. Hành động năm xưa bây giờ
trở lại ám ảnh ông, ngày cũng như đêm. Chỉ sau khi bộc bạch hết tội lỗi ngày
xưa, ông mới cảm thấy bớt đi phần nào đau khổ.
Mỗi hành động của ta sẽ trở về lại với ta. Con dao ta dùng để
giết chết người kia – hành động hãm hại kẻ khác – sẽ trở về trừng phạt chính
ta. Chỉ có ta, chứ không một ai khác, biết được lý do vì sao ta đau khổ. Trong
trường hợp ấy thật khó mà được chết bình an. Cho nên hạnh phúc lớn nhất là biết
được rằng ta đang đi trên đường chính. Ta không làm một việc gì tàn hại sinh mạng,
cỏ cây hay đất đá. Một tâm hồn bình an sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn, hiểm
nguy không chút sợ hãi, và có thể chết trong bình an. Đây là một điều rất quan
trọng. Không thể chần chừ được nữa.
Không ai có thể thực tập Năm Giới Quý Báu một cách toàn hảo,
kể cả Bụt. Mục đích không phải là thật hoàn hảo mà là chánh niệm về những hành
động của mình, ngay cả khi phạm lỗi. Nếu đi lạc trong rừng, ta thường nhằm hướng
sao Bắc Đẩu để tìm đường ra. Ta theo hướng sao Bắc Đẩu với mục đích là về nhà
chứ không phải lên trên sao Bắc Đẩu. Năm Giới Quý Báu được ví như sao Bắc Đẩu,
chúng ta không phải thực tập cho toàn hảo. Thực tập chánh niệm là ánh sáng dẫn
đường chỉ lối. Ta biết rằng ta đang đi trên đường chính trực. Có con đường tâm
linh, con đường của tình thương và sự hiểu biết, ta cảm thấy hạnh phúc vì biết
rõ hướng đi của mình. Hạnh phúc sẽ trong tầm tay vì ta đang đi trên con đường của
tâm từ bi, con đường bảo vệ sự sống. Đây là một điều rất quan trọng. Thực tập
Năm Giới Quý Báu sẽ bảo vệ và nâng đỡ chúng ta.
Năm Giới Quý Báu có đặc tính phổ quát. Thọ trì Năm Giới Quý
Báu, ta trở thành đệ tử cưng của Bụt, con chiên ngoan của Jesus. Bụt, Jesus,
Abraham, Mohamed luôn đồng hành với chúng ta trên con đường tu tập.
Trích từ sách: Quyền lực đích thực (Thiền sư Thích Nhất Hạnh)
Nhận xét
Đăng nhận xét