CHƯỚNG NGẠI TRONG VIỆC TU THIỀN LÀ GÌ?
CHƯỚNG NGẠI
TRONG VIỆC TU THIỀN LÀ
GÌ?
Thích Nữ Hằng Như
TU THIỀN PHẬT GIÁO LÀ
GÌ?
Thich Nu Hang NhuTu thiền (Bhavanã Jhãna) Phật giáo là tiến
trình tu tập, hành trì miên mật một pháp môn nào đó để kinh nghiệm trực tiếp
trên Thân và Tâm về những giáo lý nhà Phật mà hành giả đã học từ kinh điển hay
qua sự hướng dẫn của những bậc chân nhân.
Thiền hay sống Thiền là sống trọn vẹn ngay bây giờ và ở đây
với cái Biết như thật về hiện tượng thế gian, không phê phán khen chê, không
quay về quá khứ cũng không hướng đến tương lai hoặc dính mắc với tham dục ở hiện
tại.
Giáo pháp của Đức Phật để lại không ngoài mục đích giúp con
người Thoát Khổ, Giác Ngộ, Giải Thoát. Và con đường đi đến Thoát khổ, Giác ngộ,
Giải thoát đó phải thông qua thiền Định.
Theo ngôn ngữ Phật giáo, chữ Thiền thường được kết hợp chặt
chẽ với chữ Định (Samàdhi). Trạng thái ban đầu của Samãdhi trong kinh điển định
nghĩa là Nhất tâm (Citta Ekagaya). Nhất tâm là trạng thái của Thiền chứng ở mức
độ tịnh chỉ (Samatha), Ở giai đoạn này định Nhất tâm chưa hoàn thiện vì còn chịu
ảnh hưởng khuấy động của Tầm và Tứ. Khi Tâm hoàn toàn được ổn định ở mức độ
kiên cố, không còn tán loạn, nghĩa là Tầm và Tứ hoàn toàn yên lặng, thì lúc bấy
giờ mới được gọi là Samãdhi tức Định vững chắc.
Sự thành đạo của Đức Phật được biểu thị qua tiến trình tu chứng
bốn bậc Thiền Định. Đó là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, còn gọi
là Sơ Định, Nhị Định, Tam Định hay Tứ Định.
Kể lại kinh nghiệm chứng ngộ Sơ Thiền, trong Kinh Sa Môn Quả,
Đức Phật cho biết: "Tỷ kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ".
Mức độ thứ hai là Nhị Thiền, Đức Phật dạy tiếp: "Vị Tỳ
Kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm và tứ, nội tĩnh nhất tâm." Nội tĩnh Nhất tâm có nghĩa là
Tâm yên lặng không còn bị Tầm và Tứ khuấy động nên Nhị Thiền này kết quả thù thắng
hơn Sơ Thiền.
Mức độ thứ ba, Đức Phật nói: "Vị Tỳ Kheo ấy ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là "xả niệm
lạc trú", chứng và trú tam thiền." Trong kinh gọi tầng định này là Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Mức độ cao nhất trong thiền Phật giáo lúc đó là Tứ thiền còn
gọi là Định bất động tức ngôn hành, ý hành và thân hành không động. Đức Phật chia
sẻ như sau: "Vị Tỳ Khưu ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng
và trú tứ thiền, không khổ, không lạc, "xả niệm thanh tịnh" tức kinh
nghiệm trạng thái Tâm hoàn toàn thanh tịnh, do xả sanh .
Muốn kinh nghiệm các tầng Thiền kể trên, bước đầu hành giả
phải "Như lý tác ý" nhằm tẩy trừ các bất thiện pháp: "tham dục,
sân hận, hôn trầm - thuỳ miên, trạo cử - hối quá và hoài nghi" là nguyên
nhân cản trở sự tự chủ nội tâm nơi hành giả gọi là "năm triền cái".
Như vậy bước đầu tu Thiền là sự tu tập để đoạn trừ "năm
triền cái" và thay thế bằng "năm thiền chi" tức là năm tâm sở đối
nghịch với năm triền cái, đó là: "Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm."
"NĂM TRIỀN
CÁI" LÀ GÌ ?
Triền tức là trói buộc, trì kéo nặng nề hay là ngăn che. Năm
triền cái là năm thứ trói buộc tâm con người trong phiền não, tạo nhiều nghiệp,
phải chịu sanh tử luân hồi. Chức năng của triền cái là ngăn che trí tuệ khiến
con người bị vô minh che mờ không Giác ngộ được. Đối với người tu Thiền thì năm
triền cái chính là các ác pháp, tà pháp là: "Tham dục; Sân hận; Hôn trầm-Thuỵ
miên; Trạo cử-Hối quá; và Nghi ngờ", làm cho hành giả tu Thiền không thể đạt
được Tâm yên lặng, định tĩnh, là nền tảng phát huy trí huệ đưa đến Giác ngộ, Giải
thoát.
Đức Phật dạy muốn loại trừ năm triền cái: "Tỷ kheo tự mình
quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh
nô lệ, như con đường sa mạc" để ghê sợ mà viễn ly nó, thì con đường tu Thiền
mới được suông sẻ. Trước hết chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của mỗi triền cái
như thế nào rồi mới áp dụng phương pháp Phật dạy để xa lìa nó.
1) Tham dục: Là sự ham muốn được là tướng nam hay nữ đẹp đẽ,
được nghe âm thanh ngọt ngào, mùi hương hấp dẫn, vị ngon của thức ăn nước uống
và những cảm giác êm dịu đê mê của thân khi xúc chạm.
Nói chung đó là những mong cầu dục lạc qua năm giác quan như
sắc dục, thanh dục, hương dục, tỷ dục, vị dục, xúc dục và những ước muốn không
bao giờ biết đủ về mưu cầu tiền bạc, người đẹp, danh thơm tiếng tốt cũng như uy
quyền tột đỉnh của ý dục. Ngoài ra tham dục còn được kể đến như lòng khao khát
ham muốn hưởng thụ khoái lạc trong những hoạt động tình dục, ăn ngon ngủ kỷ,
thích này thích nọ, không muốn chịu đựng những cảm giác đau đớn, phiền muộn mà
muốn luôn được sảng khoái dễ chịu trong mọi hoàn cảnh. Đó là những đòi hỏi của
bản năng con người.
Người đời thường nói ham muốn càng nhiều thì phiền não càng
gia tăng. Điều này thật đúng, nhưng rất tiếc, tuy biết thế nhưnh đa số con người
vẫn luôn ngụp lặn trong tranh giành được mất hơn thua do tham dục đòi hỏi, rồi
than đau, than khổ!
Người tu hành là người tỉnh ngộ muốn thoát ra khỏi cuộc sống
dằn vặt bởi những ham muốn đó. Tu hành pháp môn nào cũng phải biết tri túc thiểu
dục, nhất là tu Thiền lại càng phải đoạn
trừ tham dục thì Tâm mới an ổn, vì không còn khởi niệm ham muốn cái này, ham muốn
cái kia, khiến Tâm lúc nào cũng lăng xăng dao động không đạt được mục đích an tịnh.
2) Sân hận: Nghĩa là Tâm tức giận đối với những hoàn cảnh
không vừa ý hay do người khác làm trái ý mình. Người sân hận là người mang tâm
trạng muốn chống đối, trừng phạt, gây gổ hay tàn phá. Sân hận là trạng thái
tiêu cực tiềm ẩn trong mỗi con người, nó sẽ bộc phát khi gặp điều kiện thích hợp
tác động. Cảnh báo sự độc hại của sân hận, Đức Phật cho biết tham, sân, si là
tam độc, nó có khả năng phá hoại tâm hồn và thể xác con người không chỉ đời này
mà còn nhiều đời sau. Trong kinh còn cho rằng sân hận tàn khốc và nguy hiểm hơn
lửa dữ, nó như là giặc cướp, như là rắn độc, một niệm sân hận dễ dàng đốt cháy
cả rừng công đức, cho nên phải tìm đủ mọi cách để ngăn chận loại trừ nó.
Sân hận có nhiều trạng thái, mức độ biểu hiện khác nhau ví dụ
như: Chán ghét, buồn phiền, bực tức, giận hờn, nổi nóng, oán hận, căm thù. Sân
hận biểu lộ qua hành vi nét mặt, lời nói và trong ý nghĩ. Biểu lộ bằng thái độ
như nhăn mặt, nhíu mày, trợn mắt, nghiến răng. Biểu lộ bằng lời nói như la hét,
quát tháo, chửi bới. Biểu lộ qua cử chỉ hành động như quăng ném đồ đạc, đánh đập,
hành hạ, đâm chém, giết người.... Có khi
nỗi sân hận oán thù không biểu hiện ra ngoài mà giữ kín trong lòng theo kiểu
"sống để dạ chết mang theo" đồng nghĩa "đây là mối thù truyền kiếp"
từ đời này qua đời khác. Sân hận khiến người ta tạo nghiệp xấu qua lời nói, ý
nghĩ và hành động. Nó là nguyên nhân bất thiện đưa tới quả luân hồi sinh tử.
Đối với người tu Thiền, sân hận là sự chán ghét vào chính đối
tượng thiền quán trong lúc toạ Thiền. Nó khiến hành giả dễ dàng bỏ rơi đề mục
đang tu tập, chuyển tâm qua những mục tiêu khác.
3) Hôn trầm-Thuỵ Miên: Là sự mệt mỏi của Thân và sự dã dượi
của Tâm. Là trạng thái nặng nề uể oải của cơ thể và sự mơ màng của tâm thức. Trạng
thái đầu tiên khi hành giả toạ Thiền là đánh mất Chánh niệm, phóng tâm lang
thang ra khỏi chủ đề, sau đó rơi vào trạng thái vô ký nửa mê nửa tỉnh. Đây là
trạng thái Tâm không ngủ mà cũng không thức gọi là hôn trầm.
Tu Thiền là rèn luyện Tâm. Khi Thân uể oải, Tâm ngầy ngật
thì ta không có nghị lực để làm bất cứ chuyện gì. Không có nghị lực sẽ đưa đến
hôn trầm. Hôn trầm làm cho niệm Biết mất đi sự rõ ràng, tiến tới sự rời rạc, yếu
ớt và biến mất. Từ đó đưa đến thuỵ miên là ngủ gục trong lúc toạ thiền mà ta
không hay biết.
4) Trạo cử - hối quá: Trạo cử có hai mặt, trạo cử nơi Thân
và trạo cử nơi Tâm. Thân thì không lúc nào ngồi yên một chỗ, cứ lắc lư thay đổi
thế ngồi, mắt liếc nhìn qua lại. Hoặc do sự tinh tấn hành trì quá sức chịu đựng
khiến cho cơ thể bị rả rời hay đau nhức, dễ đưa đến tình trạng chán nãn lười biếng
trong việc tu tập. Trạo cử của Tâm là
trạng thái Tâm bị các niệm lăng xăng xẹt vô, xẹt ra, chi phối trong lúc hành
Thiền. Tâm này trong kinh gọi là "tâm lang thang" hết suy nghĩ chuyện
này sang suy nghĩ chuyện khác như chú khỉ chuyền cành không bao giờ chịu ngồi
yên, hoặc là không hài lòng với đề mục tu tập nên phóng tâm ra ngoài tìm những
đề mục khác hứa hẹn tốt hơn. Tìm những đề mục khác có nghĩa là hành giả đang bị
sự nghi ngờ chi phối.
Hối quá là trạng thái đặc biệt khác của trạo cử thuộc về
Tâm. Tâm không yên là bởi lương tâm cắn rứt hối hận những lầm lỗi đã qua. Đó là
nghiệp quả của các hành động bất thiện trong quá khứ khiến cho Tâm không được
an ổn trong lúc hành Thiền.
5) Nghi ngờ: Trạng thái Tâm luôn do dự, không nhất quyết nhận
ra điều nào thực sự đúng và điều nào thực sự nào sai, nghĩa là trong Tâm còn
nhiều thắc mắc về khả năng tu tập của chính mình, hoặc nghi ngờ pháp học pháp
hành không biết có đúng không? Có khi nghi ngờ khả năng chứng đắc của Thầy
mình, hay chưa chắc chắn tin vào Tam Bảo.
Nghi ngờ cũng có thể xem như là một trạng thái khác của trạo
cử, khi trong đầu có quá nhiều kiến thức, nhiều khái niệm do đó Tâm rơi vào trạng
thái lưỡng lự, không quyết định. Vì thế, những câu hỏi, những thắc mắc trong
lúc toạ Thiền cần phải được giải quyết một cách rõ ràng thấu đáo trước khi thực
hành.
Khi quyết định chọn tu Thiền, hành giả phải có niềm tin vững
chắc, hiểu rõ phương pháp kỹ thuật hành Thiền, hiểu rõ đề mục tu tập và hiểu rõ
mục đích tu tập này đi về đâu.
"NĂM THIỀN
CHI" CÓ KHẢ NĂNG LOẠI TRỪ
"NĂM TRIỀN
CÁI"
Đã sanh làm kiếp con người, có ai không ao ước mong muốn
hoàn thành điều gì đó trong cuộc đời của mình. Cái mong muốn đơn giản mà ai
cũng có, đó là xây dựng một đời sống tốt, một gia đình an vui hạnh phúc. Có
mong muốn người ta mới cố gắng học hỏi, mới có nghị lực để làm việc, hầu đạt được
mục đích. Nhưng thói thường, sự mong muốn đơn giản này dần dần sẽ nảy sanh nhiều
mong muốn khác. Mong muốn thì không có hại, nhưng cái gì cũng muốn để phục vụ
cho giác quan, cho bản ngã của mình, thì từ trạng thái mong muốn đã nhảy sang
trạng thái tham lam khao khát sở hữu cái này, sở hữu cái kia. Khi con người vượt
qua lằn ranh mong muốn bước sang vùng đất tham lam không biết dừng, thì con người
đã sa vào hố sâu của tham dục. Càng lặn ngụp trong tham dục thì càng bị cơn
xoáy bộc lưu cuốn sâu vào vùng vô minh đau khổ.
Những ai đã bị tham dục lấn áp rồi, không thể một sớm một
chiều mà buông bỏ được. Những thứ đó giống như những chất ghiền nghiện huân tập
trong ký ức khó buông bỏ, nó biến thành lậu hoặc tập khí. Khi toạ Thiền chúng lần
lượt bung lên khuấy động làm cho Tâm hành giả không thể nào được an tịnh. Vì
không đạt được sự an tịnh trong lúc tu tập khiến cho hành giả bất mãn sinh chán
ghét pháp tu, nghi ngờ pháp tu.
Để chứng ngộ Sơ Thiền, Đức Phật dạy chúng ta cần "ly dục,
ly bất thiện pháp", hay nói cách khác là phải đoạn trừ toàn bộ "năm
triền cái" . Muốn đoạn trừ "năm triền cái" là những pháp bất thiện,
thì bên cạnh việc tu Tâm, hành giả cần tu Tướng. Tu Tướng có nghĩa là hành giả
cần: Có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo, nắm vững pháp học (giáo lý) và pháp
hành (kỹ thuật thực hành) để chế ngự lòng nghi ngờ. Giữ gìn giới luật không
không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không sử dụng những
chất say làm lu mờ tâm trí để chế ngự lòng tham cũng như trạo cử-hối quá khi ngồi
Thiền. Ngoài ra hành giả cần sống tri túc thiểu dục trên mọi mặt để chế ngự
lòng tham lam khao khát. Nuôi dưỡng lòng từ bi, rộng lượng với mọi người và mọi
vật để chế ngự lòng sân hận.
Nhờ sự tu tập hằng ngày chừa bỏ những ác pháp, thực hành những
pháp lành, hành giả có thể ngăn chận "năm triền cái" lúc toạ Thiền.
Khi có kinh nghiệm Định thì "năm thiền chi" xuất hiện lấn áp và làm
cho "năm triền cái" không thể trồi lên được.
"Chi thiền Tầm và Tứ" có công năng đối trị
"hai triền cái Hôn Trầm - Thuỵ Miên và Nghi Ngờ"
Tầm tiếng Phạn là Vitakka có nghĩa là "tư duy", là
"hướng tới" hay "tập trung" Tâm vào một đối tượng duy nhất.
Đơn giản và dễ hiểu, Hoà Thượng Thích Thông Triệt giải thích
Tầm là "sự nói thầm" (tư duy, suy nghĩ) trong Tâm. Tứ là "đối
thoại thầm lặng" trong Tâm. Cả hai là tiếng nói thì thầm bên trong Tâm. Nếu
Tầm Tứ không dừng lại thì nó sẽ phát ra âm thanh tức nói ra lời tạo khẩu nghiệp.
Trong kinh ghi chức năng của Tầm là hướng tâm hay tập trung
tâm đến đối tượng, mang lại sự sâu lắng cho Định. Tứ thì gắn chặt và neo Tâm
vào đối tượng nghĩa là duy trì sự định tâm nơi đối tượng đã thành tựu từ Tầm. Trong
sự liên hợp này Tầm-Tứ là hai yếu tố thiết yếu cho sự thành tựu và ổn định của
Sơ Thiền.
Khi Tâm của hành giả đang tư duy, hay đang hướng đến, hoặc tập
trung vào một đối tượng tức là "thiền chi Tầm" đang có mặt, thì hành
giả không thể rơi vào trạng thái hôn trầm. Cũng như trong Tâm đang có sự hiện
diện của "thiền chi Tứ" đang làm công việc gắn chặt sự hướng tâm của
Tầm vào đối tượng, thì chứng tỏ rằng hành giả đang tinh tấn tu tập, không có sự
nghi ngờ về pháp học hay pháp hành ở đây.
Như vậy chúng ta có thể nói khi "hai thiền chi Tầm và Tứ" có mặt
trong trạng thái Định thì "hai triền cái hôn trầm và nghi ngờ" không
thể trồi lên được.
Có điều quan trọng, hành giả cần ghi nhớ Tầm và Tứ là hai
chi xuất hiện trong Sơ Thiền, nhưng muốn tiến cao hơn thì hành giả cần phải
buông cả Tầm và Tứ, cũng như không dính mắc với hỷ lạc, thì mới đạt được Định
sâu lắng vững chắc ở tầng Thiền thứ hai.
"Thiền chi Hỷ và Lạc" có công năng đối trị
"hai triền cái Sân Hận và Trạo Cử"
Chi thiền thứ ba có mặt trong Sơ Thiền là Hỷ tiếng Phạn là
"Pìti". Hỷ có nghĩa là sự hân hoan, thích thú, vui mừng, hỷ duyệt,
hài lòng, phấn khởi của Tâm. Chức năng của Hỷ là làm cho Thân và Tâm được tươi
tỉnh, phấn chấn. Như vậy "thiền chi Hỷ" trái ngược với sự buồn bực,
thù hằn, sẵn sàng trừng phạt, la hét của "triền cái Sân Hận". Như vậy
Hỷ có khả năng đối trị sự Sân hận.
Chi thiền thứ tư có mặt trong Sơ Thiền là Lạc tiếng Phạn là
"Sukha". Chữ Lạc được dùng như danh từ thì có nghĩa là: Sự dễ chịu,
niềm hạnh phúc hay sự hài lòng. Nếu dùng như tĩnh từ thì Lạc có nghĩa là: trạng
thái an lạc, trạng thái dễ chịu. Lạc biểu thị cảm giác dễ chịu ngược với khó chịu
bất mãn là khổ. Trong lúc toạ thiền mà có kinh nghiệm "dễ chịu, hài
lòng" thì trạo cử không xuất hiện.
"Chi thiền Nhất Tâm" có công năng loại trừ
"triền cái Tham Dục"
Nhất tâm là thiền chi thứ năm. Ở mức Sơ Thiền, Nhất tâm có
thể hiểu là trạng thái Samatha nghĩa là tịnh chỉ mọi hoạt động trong Tâm, nhưng
vẫn còn Tầm và Tứ. Khi nào Tầm và Tứ cũng yên lặng luôn thì Nhất tâm được gọi
là Samãdhi tức Định vững chắc.
Nhất tâm ở Sơ Thiền tích tụ một sức mạnh đặc biệt nhờ bốn
chi thiền kia hợp nhất, neo Tâm vào một đối tượng vững chắc được gọi là định
căn. Chức năng của Nhất tâm là ngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện tác động vào
Tâm, đặc biệt là tham dục. Bởi vì nó duy trì một sức mạnh ổn định nên gọi là định
lực. Định lực đưa Tâm đến trạng thái tịnh chỉ, tức trạng thái Samatha. Samatha
là nền tảng của Samãdhi, mà Samãdhi là nền tảng cho tuệ giải thoát phát huy sau
này.
Trong lúc hành Thiền, hành giả kinh nghiệm trạng thái Nhất
tâm có nghĩa là Tâm hoàn toàn yên lặng, không còn dính mắc đến thân thể hay hoạt
động của năm giác quan, vì thế tham dục không thể khởi lên.
KẾT
Trên bước đường tu tập, nhất là tu Thiền thì năm triền cái:
Tham dục, Sân hận, Hôn trầm, Trạo hối và Nghi hoặc là những chướng ngại lớn nhất.
Khi hành giả bắt đầu ngồi xuống toạ thiền, thì một trong những triền cái, hay
toàn bộ năm triền cái nổi lên quậy phá, khiến cho hành giả đánh mất chánh niệm,
đánh mất sự tỉnh giác, thả hồn lang thang theo hết hiện tượng này qua hiện tượng
khác. Năm triền cái tựa như một chiếc xe hứa hẹn đưa chúng ta đi vào con đường
luân hồi sinh tử. Chúng tác động vào Tâm khiến chúng ta đánh mất những giới hạnh
cao quý, lăng xả vào dục vọng thế gian, hành xử bất thiện, tạo những nhân xấu
trong đời sống nhiều hơn là nhân tốt. Cho nên muốn hành trì giáo pháp để đi đến
Giác ngộ Giải thoát thì việc đầu tiên là phải đoạn trừ năm triền cái. Đoạn trừ
bằng cách nào? Trước hết là phải "Như lý tác ý" không được "Phi
như lý tác ý".
"Như lý tác ý" nghĩa là khởi ý, tác ý học hỏi và
áp dụng thực hành những chân lý mà Đức Phật đã dạy. Chân lý là những điều thiện
lành đúng đắn không bao giờ thay đổi bởi thời gian và không gian. Thí dụ như
chân lý vạn vật Vô thường, Khổ, Vô ngã; chân lý Tứ Diệu Đế: Khổ đế, Tập đế, Diệt
đế và Đạo đế gồm tám nhánh như Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định...
Người tu hành không nên "Phi như lý tác ý" nghĩa
là không tác ý thích sống trong tham dục, trong giận hờn, ghen tuông, sân hận
... "Phi như lý tác ý " ở đây chính là "năm triền cái".
Chúng ta thực hành "Như lý tác ý" để hướng Tâm đến
đối tượng thiện lành. Tâm được huân tập những thói quen tốt, thì khi toạ thiền
chúng ta ít bị triền cái phá rối. Nhưng nếu triền cái có ló dạng thì chúng ta
"Như lý tác ý" buông bỏ liền vì đã biết đó là bất thiện pháp.
Còn "năm thiền chi" chỉ xuất hiện sau khi
"năm triền cái" không có mặt. Lúc bấy giờ công năng của "năm thiền
chi" như là ánh sáng, còn "năm triền cái" như là bóng tối. Hễ
cái này có mặt thì không có cái kia. Nhưng nếu "năm thiền chi" hiện
diện yếu ớt, thì triền cái sẽ có dịp trồi lên. Cho nên phải có định lực vững chắc
thì mới hoàn toàn diệt được "năm triền cái".
Tóm lại, trong lúc hành Thiền, năm triền cái là chướng ngại
khiến cho việc tập trung Tâm vào đề mục đang hành trì rất khó khăn. Chúng ta cần
kiểm điểm xem chúng ta đã vướng phải triền cái nào: Tham dục, Sân hận, Hôn trầm,
Trạo hối hay Nghi ngờ? Từ đó chúng ta tìm phương cách hoá giải thích hợp để vượt
qua hàng rào ngăn che đó, hầu vượt lên mức Thiền Định cao hơn.
Thí dụ như tham dục quá mạnh thì chúng ta cần quán hiện tượng
bất tịnh, vô thường, khổ, vô ngã của tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Áp dụng pháp
tu phòng hộ sáu căn, tiết độ sự ăn uống, ngủ nghỉ v.v...
Nếu như chúng ta dễ dàng nổi sân đối với mọi người thì chúng
ta nên chọn đề mục Thiền từ ái. Quán xét những nghiệp mình gây ra, quán xét bản
chất vô thường về tài sản mình đang sở hữu.
Thường xuyên Như lý tác ý làm việc lành, nói lời lành, tu hạnh bố thí
v.v... để tạo thành thói quen trợ giúp cho việc phát triển tâm Từ và loại bỏ
sân hận.
Nếu như thường xuyên bị hôn trầm, chúng ta cần biết lý do của
hôn trầm phần lớn là do ăn uống quá độ, hoặc thiếu ngủ, hay đích thực là cơ thể
đang quá mệt mỏi. Vì thế chúng ta không nên ăn quá no trước khi ngồi thiền, nên
ngủ đủ giấc để thân tâm khoẻ khoắn khi toạ Thiền. Chọn chỗ ngồi Thiền thoáng
mát, không quá tối tăm. Tư thế toạ Thiền cũng rất quan trọng, ngồi ngay ngắn,
lưng thẳng, hai vai ngang với hai trái tai v.v... Khi buồn ngủ thì không nên nhắm
mắt.
Trạo cử, hoài nghi phần lớn do chúng ta chưa có niềm tin vững
chắc về pháp tu hoặc kiến thức của chúng ta quá rộng rãi, nên có nhiều thắc mắc.
Để trị hai căn bệnh này, chúng ta cần tìm hiểu rõ về cuộc đời và đường lối tu tập
cũng như sự chứng ngộ của Đức Phật. Tìm hiểu về giáo pháp của Ngài. Khi đã quyết
định trở thành đệ tử của Phật thì phải thông suốt giới luật, đặt trọn niềm tin
nơi Tam Bảo. Lý thuyết tức pháp học phải vững chắc thì khi thực hành mới không
bị trạo cử hay nghi ngờ.
Nói chung sự đè nén năm triền cái bằng pháp Như lý tác ý ở
bước đầu rất cần thiết để chứng Thiền. Không những giúp cho hành giả chứng Thiền,
mà nó còn có khả năng kéo dài Thiền chứng ấy nữa.
Ở giai đoạn đầu của Nhất tâm, chúng ta có thể nhờ vào định lực
đè nén sự nổi dậy của năm triền cái, nhưng vì chúng ta chưa Chánh Tư Duy rốt
ráo và chưa tu tập pháp "Như lý tác ý" để làm suy yếu tiềm năng của chúng, thì chúng
vẫn còn tiềm tàng ẩn náu trong tiềm thức chúng ta. Chúng là những chất ô nhiễm,
là lậu hoặc, tập khí bám chặt trong Tâm và có khuynh hướng "nổi loạn"
nhằm chọc thủng sự tịnh chỉ (Samatha), phá tan định lực của chúng ta khi có cơ
hội.
Con đường tu Thiền là con đường đi về ngôi nhà tâm linh của
mình. Trên đường đi phải qua nhiều cửa ải. Một trong những cửa ải đó là
"năm triền cái". Qua được "năm triền cái" rồi, chúng ta còn
phải buông bỏ Tầm và Tứ để an trú trong tầng Thiền thứ hai tức Định không Tầm
không Tứ. Đây là cửa ải khó khăn nhất. Khi Tâm chúng ta đã quen thuộc với sự
tĩnh lặng không Tầm không Tứ rồi thì "năm triền cái" không có cơ hội
xen vào cuộc hành trình của chúng ta. Do đó trước mặt của chúng ta là con đường
thênh thang rộng mở, chúng ta sẽ nếm được pháp vị của Thiền và từ đó thẳng tiến
tu cho đến khi nào kinh nghiệm được mục tiêu Thoát khổ, Giác ngộ, Giải thoát
ngay trong đời này.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
August 17-2018
Tài liệu:
- Kinh Sa Môn Quả (Sàmannaphala Sutta) – Kinh Trường Bộ -
ĐLHT Thích Minh Châu dịch.
- Tìm Hiểu Kinh Sa Môn Quả: Đoạn Xả Ly Năm Triền Cái của Hoà
Thượng Thích Nhuận Thịnh.
- Tài liệu học tập thuộc giáo trình giảng dạy các cấp lớp
Bát Nhã của HT. Thích Thông Triệt (ThiềnTánh Không)
(theo thuvienhoasen)
Nhận xét
Đăng nhận xét