GIỚI THIỆU VỀ THIỀN
GIỚI THIỆU VỀ THIỀN
Tâm Thái
Đức Phật Thích Ca khi
truyền đạo thì tùy căn cơ, trình độ mỗi người mà chỉ cho phương pháp tu tập
khác nhau, cũng ví như thầy thuốc chữa bệnh thì tùy bệnh mà cho thuốc như vậy mới
có kết quả tốt. Trong đạo Phật thường nói đến Tam Thừa: Thanh Văn thừa, Duyên
Giác thừa và Bồ Tát thừa. Hai Thừa trên còn được gọi là Nhị thừa, cũng còn gọi
là Nguyên thủy, hoặc Nam Tông vì các nước về phía Nam như Thái Lan, Lào, Cam Bốt,
Tích Lan chuyên theo thừa đó. Bồ Tát thừa thường được gọi là Đại thừa hoặc Bắc
Tông, được lan truyền tại các nước miền Bắc như Trung Hoa, Nhật Bản và phần lớn
Việt Nam. Ngoài ba Thừa trên, muốn nói cho đầy đủ thì có khi còn kể thêm hai Thừa
nữa để chỉ những người tu theo đạo Phật nhưng chưa thấm nhuần sâu xa được lý Đạo:
Nhân thừa và Thiên thừa. Những người tu theo Nhân thừa chỉ mới tin Đạo, và mục
đích chỉ là gây nhân lành để có quả tốt trong đời này và những đời sau ở thế
gian. Những người tu theo Thiên thừa thì muốn sau này sẽ được sinh tại cõi trời
để tránh sự khổ trần gian. Những người tu theo hai Thừa đó, vì còn ở trong vòng
mê nên gọi là phàm phu, phàm tức là chưa phải bậc thánh chứ không có nghĩa xấu
theo như ta thường dùng là thô tục, thấp kém. Pháp Thiền phàm phu vì vậy chỉ có
mục đích giúp cho tâm khỏi tán loạn để giữ cho thân, miệng, ý tránh làm những
điều xấu, nhưng chưa theo hoàn toàn được mục đích của đạo Phật. Như vậy thực sự
Thiền Phật giáo chỉ bao gồm các Thiền Nguyên thủy, Thiền Đại thừa và Thiền
Tông.
Thiền Nam Tông, tức Nguyên thủy, được chỉ dẫn trong các kinh
tạng Nam Tông. Tuy nhiều phương pháp nhưng về thực hành thì có thể kể hai pháp
thịnh hành nhất là: Anapanasati (niệm hơi thở) và Vipassana (quán, minh sát).
Do lời giảng của hoà thượng Thích Minh Châu thì pháp môn Anapanasati được chỉ dạy
trong kinh "Một pháp" nằm trong bộ kinh "Tương Ưng". Pháp
này gồm việc dùng niệm theo dõi hơi thở vô, hơi thở ra, thí dụ :
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ
thở ra
Quán ly tham, tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra ...
"
Pháp môn này thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ, tức bốn chỗ (xứ)
để an trú niệm là: thân, thọ, tâm và pháp. Theo hoà thượng Thích Minh Châu thì
ích lợi của Anapanasati vừa để định tâm cho tâm khỏi giao động (thường được gọi
là Chỉ hoặc Định), vừa phát triển quán sát, suy tư (gọi là Quán hoặc Huệ). Ích
lợi của pháp Thiền này là làm cho "thân tâm nhẹ nhàng, phấn khởi, hoan hỷ,
vui vẻ, ít bệnh, ít phiền não". Còn đường lối của Vipassana là chú niệm về
ngũ uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức, là năm thành phần về thân và tâm cấu
tạo nên con người. Chú niệm vào ngũ uẩn để thấy rõ thực tướng của chúng và như
vậy không còn bám níu, chạy theo đó nữa. Phương pháp "chú niệm" đây
có nghĩa là quán sát một cách liên tục và chuyên chú. Đặc điểm của phương pháp
này là trong khi chú ý quán sát nhưng vẫn giữ một tâm trống lặng, tức không có
khởi phân biệt, xét đoán, giải thích những điều quan sát đó. Để giữ cho tâm trống
lặng chúng ta cần phải dẹp hết những khái niệm, thành kiến, có như vậy mới quán
sát sự vật một cách trung trực được . Vipassana áp dụng một cách sâu xa kinh Tứ
Niệm Xứ (Satipatthana Sutra), thường được coi là kinh chánh yếu của Thiền Nam
Tông.
Nói Thiền Đại thừa tức nói đến những pháp Thiền có ghi trong
các kinh điển Đại thừa. Khác với Thiền Nguyên thủy thường được tả rất rõ ràng,
chi tiết, các kinh điển Đại thừa tuy có chỉ những phương pháp tu nhưng không có
hệ thống rõ ràng như hai pháp Thiền nói trên. Về phương pháp cũng vẫn là hai
phương pháp chính là Chỉ và Quán. Tuy danh từ giống nhau, nhưng theo hòa thượng
Thích Thiện Hoa "Trong kinh này (kinh Viên Giác) nói Chỉ, Quán không đồng
lối Chỉ, Quán của Nguyên thủy, vì lối Chỉ, Quán của Nguyên thủy là phải dùng
phương tiện bên ngoài để tu. Còn lối Chỉ, Quán của Đại thừa là xứng theo bản thể
của Chân tâm mà Chỉ và Quán". Trong kinh Viên Giác, đức Phật còn chỉ thêm
pháp thứ ba là Thiền Na, pháp này không theo hẳn Chỉ hoặc Quán mà y theo tâm
Viên giác thanh tịnh (một danh từ chỉ Phật tánh) mà tu. Kinh này nói rõ phương
tiện tu tuy có nhiều nhưng không ngoài ba pháp đó, và có thể phối hợp ba pháp
đó, bằng cách tu riêng một pháp, hoặc hai pháp, hoặc cả ba pháp cùng lúc, tất cả
thành 25 pháp tu. Nhiều kinh lại kể những pháp Quán riêng biệt: Kinh Lăng
Nghiêm kể kinh nghiệm của nhiều vị Bồ tát về những đề tài quán khác nhau, như
quán về tứ đại (đất, nước, gió, lửa), 18 giới (6 căn, 6 trần, 6 thức). Mỗi Bồ
tát quán theo một trong những đề tài đó và đều đắc đạo. Trong kinh Lăng Nghiêm,
đức Phật nói :"A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ
Thiền Na thì không có trí tuệ." (quyển 9, đoạn 2). Tu theo Bồ Tát hạnh, là
tu theo Lục Độ Ba La Mật, mà Thiền Định và Trí Huệ là hai điều căn bản và quan
trọng nhất. Cho nên nói tu Đại thừa, tức Bồ tát thừa, mà không tu Thiền là một
điều thiếu sót đáng kể.
Thiền Tông được khởi đầu từ hội Linh Sơn, khi đức Phật truyền
cho ngài Ma Ha Ca Diếp:"Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm,
pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó
cho ngươi". Tổ Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất Thiền Tông. Cho đến Tổ thứ
28 là Tổ Bồ Đề Đạt Ma (?-532) thì ngài qua Trung Hoa để truyền đạo nên thường
được coi là Tổ thứ nhất tại Trung Hoa. Đặc điểm của Thiền Tông nằm gọn trong bốn
câu của Tổ Bồ Đề Đạt Ma : Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân
tâm, Kiến tánh thành Phật. (được dịch là: Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo
lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Đặc điểm của Thiền Tông chính
là điểm "thấy Tánh", có hiểu được điều này mới hiểu được mục đích và
phương pháp của Thiền Tông. Chữ Tánh đây không có nghĩa là tánh tình mà ta thường
dùng, cũng không phải là tánh chất. Việc định nghĩa chữ này là một việc không
nên làm và thực ra là không thể làm được, tuy vậy mà vẫn cần làm vì đó là trọng
tâm của Thiền Tông. Nói một cách đơn giản thì Tánh đây là bản thể của chúng ta,
của vũ trụ, cái bản thể dó không sinh, không diệt, không thay đổi như phần thể
chất và phần tinh thần của chúng ta. Nghe thật là dản dị nhưng ngày nào chúng
ta hiểu được điều đó thì được coi là người đã ngộ đạo, để đi đến con đường
thành Phật.
Thiền sư Tôn Mật, đời Đường, chia Thiền làm 5 loại: 1) Thiền
ngoại đạo, 2) Thiền phàm phu, 3) Thiền Nguyên thủy (Tiểu thừa), 4) Thiền Đại thừa
và 5) Thiền Như Lai Tối Thượng. Phái Thiền thứ năm đó còn được gọi là Thiền Như
Lai Thanh Tịnh, Thiền Tổ Sư, Thiền Đốn Ngộ, Thiền Đạt Ma ... mà nay thường gọi
là Thiền Tông.
Bồ Đề Đạt Ma được tôn làm sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa, truyền
cho nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và lục Tổ
Huệ Năng. Sau đó chia thành năm phái: Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng
và Vân Môn. Mỗi phái đều có phương tiện cơ xảo riêng để khế hợp với từng cơ
duyên của đệ tử. Tuỳ mỗi đương cơ mà chư Tổ, hoặc nói, hoặc nín, hoặc dùng gậy
đánh hay dùng tiếng la, tiếng hét..v..v.. Các phương tiện cơ xảo ấy giống như
chuyện vô lý nhưng lại có tác dụng làm ngưng suối nguồn ý thức của người đệ tử
lúc bấy giờ. Mục đích là để đệ tử, ngay sát na đó khai ngộ. Các ngài không muốn
đệ tử sa lầy trong văn tự chữ nghĩa, chỉ cần ngừng dòng tâm ý thức để trực thấy
bản tâm, bản tánh của mình. Do đó một người khi nhập môn dòng thiền Lâm Tế liền
bị tiếng la hét hay khi nhập môn dòng thiền Đức Sơn liền bị đánh.. v..v là vậy.
Người tham thiền thời đó cảm thấy thích hợp với cơ xảo nào thì đến phái đó theo
học. Tuy khác nhau ở cơ xảo nhưng sự ngộ chẳng khác. Lâm Tế và Tào Động là hai
phái thiền Tổ Sư còn tồn tại truyền qua Việt Nam, Cao Ly, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(theo thuvienhoasen)
Nhận xét
Đăng nhận xét