KHÁI QUÁT THIỀN PHÁI TÀO KHÊ TẠI HÀN QUỐC
KHÁI QUÁT THIỀN PHÁI TÀO KHÊ TẠI HÀN
QUỐC
Thích Ngộ Trí Viên
***
Tòa chính điện chùa Tào Khê Lược sử hình thành
Tông phái Tào Khê (Joyge Order), hay còn gọi là Tào Động, là
tông phái lớn nhất của Phật giáo Hàn Quốc hiện nay với 1.700 chùa và 13.000
Tăng – Ni.
Tào Khê có nhiều chi phái, được truyền từ Trung Quốc vào bán
đảo Triều Tiên bởi Đại sư Doui (Đạo Nghi) và các thiền sư Trung Hoa khác truyền
vào Đại Hàn cách đây 12 thế kỉ, trong triều đại Tân La Thống Nhất (Unified
Silla).
Tên của thiền phái lấy từ tên ngọn núi liên quan đến Lục tổ
Huệ Năng (638 – 713) của Trung Quốc.
Năm 826, Cửu Sơn Thiền (Nine Mountain of Seon) đã được gọi bằng
cái tên Jogye-jong (Tào Khê Tông), và tất cả những thay đổi ấy chỉ là phương tiện
trong sự phát triển quốc gia suốt triều đại Silla Thống Nhất và các triều đại
sau đó.
Suốt vương triều Goryeo (Cao Ly), các thiền sư Bojo Jinul
(Phổ Chiếu Tri Nột) và Taego Bou (Thái Cổ Trí Ngu) đã lãnh đạo các sinh hoạt của
dòng Thiền chính thống này.
Như vậy, tông phái Jogye đã được thành lập như là một tông
phái Thiềntiêu biểu trước khi có sự ngược đãi của Vương triều Triều Tiên
(Joseon Dynasty).
Những bước thăng trầm
Qua thời gian truyền bá, thiền và các giáo phái khác phát
triển vì chư Tăng Đại Hàn sau khi du học về đều khai triển tông môn. Năm 1346,
ngài Thái Cổ Trí Ngu (1301 – 1382) từ Trung Quốc trở về nước kết hợp các thiền
phái thành Tào Khê tông. Dưới thời Tân La Thống Nhất và Koryo, Phật giáo phát
triển mạnh mẽ. Nhưng vào thời nhà Lý (1392 – 1910), Phật giáo bị bức bách, hàng
Tăng sĩ bị xếp vào giai cấp thấp nhất trong xã hội Đại Hàn. Tăng – Ni không được
cư trú và hành đạo trong thành phố, bị cưỡng ép làm lao công.
Dưới thời đô hộ Nhật (1910 – 1945), chư Tăng nếu muốn hành lễ
tại các ngôi chùa phải lập gia đình, xóa bỏ truyền thống tịnh hạnh. Chỉ sau khi
Đại Hàn được giải phóng, Phật giáo truyền thống mới có cơ hội phục hưng.
Sự cố gắng trong thời kỳ khó khăn
Mặc dù suốt gần 5 thế kỷ, Phật giáo bị chèn ép bởi sự thiên
vị Khổng giáo, nhưng trong triều đại vua Sejong (Lý Thế Tông, 1418 - 1450) của
Vương triều Joseon, đã có 02 tông phái được thành lập: một tông thì thống nhất
các trường phái kinh văn; một tông thì hợp nhất các tông phái Thiền.
Cả hai tông phái này sau đó đã tạm thời bị giải thể dưới triều
đại vua Yonsangun (Yến Sơn Quân, 1494 – 1506) - kết quả của chính sách đại ngược
đãi Phật giáo.
Trong thời kỳ quân phiệt Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) xâm
lược Triều Tiên cuối thế kỷ XV, hai đại sư Seosan (Thể Tĩnh) và Samyeong (Duy
Chính) đã ủng hộ quân đội bảo vệ tổ quốc, nên cải thiện được tình hình Phật
giáo trong một thời gian.
Tuy nhiên, phong trào này cũng không tồn tại cho đến khi mà
giới tu sĩ được tái chấp nhận tại các thành thị trong các cuộc cải cách chính
trị năm 1895.
Sau đó, vào năm 1899, dưới sự lãnh đạo của thiền sư Gyeongheo
(Kính Hư, 1849-1912), chư Tăng chùa Haeinsa (Hải Ấn Tự) đã kiến nghị khôi phục
các giá trị truyền thống và nền tảng triết lý để chấn hưng các tông phái Phật
giáo. Sau đó, tông phái Wonjong (Nguyên Tông) và Imjejong (Lâm Tế Tông) được
thành lập với những nỗ lực nhằm làm hồi sinh các trường phái kinh văn và tái
thiết lập các phật sự trong các thành thị, nhưng phong trào này ngay sau đó đã
bị cấm hoạt động khi quân phiệt Nhật Hoàng cưỡng chiếm Triều Tiên năm 1910.
Lãnh đạo các chiến sĩ đấu tranh bảo vệ tự do chống lại sự
chiếm đóng của các lực lượng ngoại bang, có cả các Tăng sĩ nổi tiếng như: thiền
sư Yongsong và Manhae, và kết quả của các nỗ lực liên tục ấy chỉ giúp giữ cho
truyền thống Phật giáo Hàn Quốc không bị tiêu vong.
Năm 1921, Trung tâm thiền Sonhakwon Seon được thành lập.
Năm 1929, một hội nghị Tăng, Ni Phật giáo Triều Tiên được tổ
chức.
Năm 1937, một hoạt động nhằm kiến thiết một Tổ Đình cho tông
phái Jogye được khởi sự. Và kết quả của hoạt động này là đã kiến tạo được một Đại
Hùng Bảo Điện tại Tổ đình Jogyesa (Tào Khê Tự) ở thủ đô Seoul năm 1938.
Cuối cùng, vào năm 1941, tông phái Jogye của Phật giáo Triều
Tiên, - một tông phái biệt lập của Hàn Quốc - được thành lập, thoát ly sự ảnh
hưởng của người Nhật. Đây là một tông phái Phật giáo hợp pháp đầu tiên trong xã
hội Hàn Quốc hiện đại và là tiền thân của tông phái Jogye của Phật giáo Hàn Quốc
ngày nay.
Sau khi Triều Tiên thoát khỏi sự đô hộ của Nhật Bản năm
1945, các thiền sư - những người đã duy trì và ấp ủ các giá trị truyền thống
Hàn Quốc, - đã bắt đầu phát động phong trào thanh tịnh hóa để tái thành lập các
tông phái truyền thống cho các Tăng sĩ không lập gia đình, và lấy lại các ngôi
chùa do các tăng sỹ lập gia đình quản lý vốn là tàn dư của thời kỳ quân phiệt
Nhật Hoàng cưỡng chiếm.
Kết quả, vào năm 1955, tông phái Jogye (Tông Tào Khê) được
thành lập làm trung tâm quy hướng cho các Tăng sĩ đồng chân xuất gia. Tuy
nhiên, do kết quả của sự hòa giải giữa chính phủ và các bậc trưởng lão, các
tăng sĩ vốn đã lập gia đình cũng có trong tông phái này.
Ngày 11/4/1962, Tông phái Jogye của Phật giáo Hàn Quốc đã
chính thức thành lập với 03 mục đích chính: (i). đào tạo và giáo dục, (ii). dịch
thuật các kinh điển từ Hán ngữ sang Hàn ngữ, (iii). hoằng pháp lợi sinh. Ba mục
đích chính yếu này liên tục là kim chỉ nam suốt từ khi thành lập đến ngày nay.
Từ năm 1947 đến 1949, Tăng đoàn chùa Bongamsa đã phát động một
phong trào ủng hộ “Sống theo tinh thần giáo lý đức Phật”. Phong trào này đã là
nhân duyên để thiết lập những nguyên lý và truyền thống căn bản cũng như công
nhận các nghi thức tế lễ của tông phái.
Hiện nay, thiền phái Tào Khê hợp tác với các tổ chức Phật
giáo điều hành hệ thống truyền thanh, truyền hình. Đồng thời, thiền phái còn xuất
bản tuần báo Pulgyo Shinmub.
Các nguyên lý và tổ chức
Tông phái Jogye lấy giáo lý đức Phật làm cơ sở lý luận và
làm các nguyên lý thiền học chính thống được truyền thừa từ chư Tổ của chính
tông phái mình để giác ngộ Phật tính và để hoằng dương Phật pháp.
Tôn chỉ của tông phái này dựa vào kinh Kim Cương. Thông qua
sự nghiên cứu của kinh này, tông phái Jogye xem nó như là kim chỉ nam trong việc
tu học và hành trì, và gộp cả hai việc ấy làm thành một chương trình tu tập
quan trọng nhất, vốn được biết đến một cách rộng rãi là Thiền Hwadu (Thiền Thoại
Đầu).
Tông phái Jogye có thanh quy riêng của mình dựa vào Pháp và
giới luật Phật chế. Hiến chương đã công bố tại hội nghị Tăng già năm 1929 vẫn
còn tồn tại như là một khuôn mẫu để từ đó cho ra đời bản thanh quy ngày nay vào
ngày 10/4/ 1994.
Hệ thống tổ chức của Tông phái Joyge gồm:
- Trưởng Tông phái, hay Lãnh đạo Tinh thần, là bậc trưởng
lão có uy tín cao nhất được truyền thừa trong truyền thống tông phái.
- Một Chủ tịch phụ trách các Phật sự của tông phái ở hải ngoại.
- Một Chủ tịch Hội đồng Trị sự, phụ trách các ban: Ban Quản
trị Tổ đình, Ban Giáo dục, Ban Hoằng pháp, Ban Tăng sự v.v.
Theo số liệu thống kê của chính phủ, 53.9% dân số Hàn Quốc
là tín đồ của các tôn giáo như: Phật giáo, Tin Lành giáo, và Công giáo La Mã.
Trong số này, khoảng 12 triệu hay 47% là tín đồ Phật giáo. Hiện tại có 25 tông
phái thuộc Hội các Tông phái Phật giáo Hàn Quốc. Trong số 25 tông phái đó, tông
phái Jogye là lớn nhất.
Có 3.000 tự viện và trung tâm Phật giáo tọa lạc trong 25 quận
hạt khắp cả nước. Trong số 870 ngôi chùa truyền thống ở Hàn Quốc được chính phủ
công nhận, bảo tồn và ủng hộ, thì có đến 840 ngôi chùa chiếm 90% trong số ấy
thuộc về tông phái Jogye; và có hơn 65% trong số những ngôi chùa mà chính phủ
công nhận này là Di tích Lịch sử Quốc gia và Địa phương.
Tông phái này tổng cộng có 90 thiền viện và hơn 2.000 tỳ-kheo
trong tổng số 12.000 Tăng - Ni đã thọ giới tham dự các khóa an cư kiết hạ và kiết
đông trong các thiền viện này. Có khoảng 1.500 tu sĩ tu học trong 17 trường đại
học do các tông phái Jogye quản lý điều hành.
Tông phái Jogye cũng có các chương trình giáo dục mở rộng
dành cho các cư sĩ. Mỗi chùa đều có các chương trình tu học giáo lý và các nam
nữ cư sĩ Phật tử đóng vai trò quan trọng trong các sinh hoạt hàng ngày và trong
công tác quản lý, điều hành, và đời sống tự viện nói chung.
Ngoài ra, còn có các khóa tu dành cho các thanh niên nam nữ
và thế hệ cao niên khác. Sự tiến cúng và tham gia của các cư sĩ là điều hoàn
thiết yếu đối với tự viện và tông phái, bởi vì sự dâng hiến ấy của họ trong tự
viện là để tu tập và hoằng pháp lợi sinh.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Quang Thuận (2008)., Phật giáo Đại Hàn., Hà Nội: NXB
Tôn giáo.
2. Thích Minh Trí (28/8/2008)., Vài nét về Tông phái Tào Khê
(Jogye Order) của Phật giáo Hàn Quốc., Truy xuất từ https://goo.gl/DWbeKW
3. Admin (6/4/2018)., Hàn Quốc: TT. Thích Nhật Từ thăm và
làm việc tại trụ sở Tông phái Thái Cổ tại Seoul.,Truy xuất từ
https://goo.gl/Hyx6Y2
4. Tuyết Lan (3/5/2018)., Đôi nét về lịch sử Phật giáo Hàn
Quốc., Truy xuất từ https://goo.gl/UW6Fvx
5. Vân Tuyền (6/10/2017)., Khái quát lịch sử Phật giáo Hàn
Quốc., Truy xuất từ https://goo.gl/QiCtLY
6. Lương Phan Hồng Ngọc (4/9/2016)., Phật giáo trong xã hội
Hàn Quốc hiện đại., Truy xuất từ https://goo.gl/VZeFCa
![]() |
Thiền đường chùa Tào Khê |
![]() |
Tòa chính điện chùa Tào Khê |
![]() |
Thiền đường chùa Tào Khê |
![]() |
Sau khi lễ giác linh người quá cố, thành viên gia đình sẽ lễ tri ân quan khách đến dự |
![]() |
Phật tử ngồi thiền và đọc kinh tại chính điện |
![]() |
Một lễ cầu siêu cho Phật tử tại chùa Tào Khê |
![]() |
Cổng tam quan chùa Tào Khê |
![]() |
Chùa Tào Khê trong không gian kiến trúc hiện đại của thủ đô Seoul
|
![]() |
Chùa Tào Khê mang hơi thở cuộc sống hiện đại những vẫn có nét truyền thống
|


Nhận xét
Đăng nhận xét