TẠ ƠN TRONG Ý THIỀN
TẠ ƠN TRONG Ý THIỀN
Nguyên Giác
Trong tuần lễ mùa Tạ Ơn tại Hoa Kỳ, ý nghĩa ban đầu cũng đã
nhạt dần. Và nhiều phần đã biến đổi. Lễ Tạ Ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ thực hiện vào
tháng 10/1621, tức là cách nay 396 năm. Lúc đó, bữa tiệc Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên kéo
dài 3 ngày, với 90 thổ dân da đỏ (chữ bây giờ, gọi lịch sự là Người Mỹ Bản Xứ,
Native American) và 53 người Pilgrims (những người Châu Âu chạy sang Hoa Kỳ tỵ nạn, thuộc một hệ
phái Ky tô bị truy bức). Bây giờ, hình ảnh này đã gấp nhiều lần đảo ngược. Lúc
đó, dân da đỏ trong bữa tiệc đông gấp hai lần di dân từ Châu Âu, và bây giờ có
thể gọi là, chưa bị diệt chủng là may rồi. Ngày xưa, có lẽ chỉ chừng vài mươi
con gà tây lên bàn tiệc. Bây giờ, trung bình 46 triệu gà tây bị làm thịt cho
các bữa tiệc Lễ Tạ Ơn tại Hoa Kỳ.
Trong bài này, chúng ta sẽ nhìn về một số hình ảnh tạ ơn
trong nhà Phật. Nơi đây, sẽ không có bữa tiệc nào để làm vui khẩu vị, và cũng
không có chúng sinh nào bị đưa lên bàn tiệc.
Cuối một khóa Thiền thất dài một tuần lễ, Thiền sư Tuyên Hóa
(1918-1995) kết luận:
“Bây giờ, chúng ta đã hoàn mãn. Mời mọi người đứng dậy,
chúng ta sẽ lạy Phật ba lần để tạ ơn Ngài. Chúng ta tạ ơn Đức Phật bởi vì, ngay
cả nếu chúng ta chưa có chứng ngộ lớn, chúng ta đã có được chứng ngộ nhỏ. Và nếu
chúng ta không có chứng ngộ nhỏ nào, ít nhất chúng ta đã không bệnh. Vâng, nếu
chúng ta bệnh, ít nhất chúng ta đã không chết. Do vậy, hãy cùng nhau tạ ơn Đức
Phật.”
Khi một nhà thơ nhìn về lý vô thường, một câu hỏi có thể nêu
lên: Có cách nào để thâm cảm ngày tháng trôi qua chăng?
Thiền sư Nhật Bản Ryokan (1758–1831) có một bài thơ tuyệt vời
như sau:
Hòa vào gió,
tuyết rơi;
hòa vào tuyết,
gió thổi.
Bên lò sưởi,
duỗi thẳng cẳng,
bất động với thời gian
trong căn lều này.
Đếm ngày trôi qua,
cũng thấy rằng tháng Hai
đã tới và đi
hệt như một giấc mơ.
Cũng nói về giấc mơ và lòng biết ơn, một nhà thơ Phật tử Hoa
Kỳ thời đương đại không nói gì về những tháng ngày tuyết rơi gió thổi, nhưng
nói về ngày hè nghĩ về lời Đức Phật dạy.
Nhà văn Mary Oliver (sinh năm 1935) đã có những tác phẩm thắng
giải thưởng về sách hay National Book Award và giải Pulitzer Prize. Bài thơ sau
đây của bà có nhan đề là DREAMS (NHỮNG GIẤC MƠ). Khi dịch sẽ giữ y cách viết chữ
hoa như bài thơ nguyên tác tiếng Anh. Câu áp chót nói về chim cú màu trắng; thực
tế, chim cú thường màu đen, hoặc xám, hoặc đốm nâu. Chim cú lại sống về đêm,
không liên hệ gì tới ngày hè. Có lẽ muốn nói rằng sự tỉnh giác theo lời Đức Phật
dạy sẽ biến đêm và dòng sông trở thành ngày hè và cánh đồng (chỉ suy đoán
thôi). Bài thơ hiển nhiên là để bày tỏ lòng biết ơn Đức Phật.
NHỮNG GIẤC MƠ
Lòng Biết Ơn
Tôi Muốn Viết Một Điều Gì Rất Mực Đơn Sơ
Những Dòng Được Viết trong Những Ngày Bóng Tối Lan Ra
Có Thể Là
Tỉnh Thức
Đêm và Dòng Sông
Bài Thơ
Bài Thơ Bất Cẩn
Ngày Hè
Lời Dạy Cuối của Đức Phật
Chim Cú Trắng Bay Vào và Ra Cánh Đồng
Ngỗng Trời.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích
Minh Châu (Aṅguttara Nikāya, XI. Phẩm Các Hy Vọng - 1–12. Hy Vọng), ghi lời Đức
Phật dạy về lòng biết ơn như sau:
“Có hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm được ở đời.
Thế nào là hai? Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm. Hai hạng người
này, này các Tỷ-kheo, khó tìm được ở đời...”
Cũng trong Kinh Tăng Chi Bộ, bản Việt dịch của Hòa Thượng
Thích Minh Châu (Aṅguttara Nikāya - IV. Phẩm Tâm Thăng Bằng - 1–11. Đất), ghi lời Đức Phật dạy về lòng biết ơn như sau:
“Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân
nhân? Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không nhớ ơn.
Đối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo,
tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân,
này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân, này các
Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Đối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ
được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Đây hoàn toàn là địa vị
bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn.
Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn
được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu
một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp,
thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện,
như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa,
này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên
quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả
ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho
con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng
này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn
an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng
dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng
dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích,
hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là
làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.”
Có một điểm độc đáo trong Phật Giáo là lòng biết ơn thiên
nhiên.
Thầy Lê Bích Sơn đứng bên cạnh tấm bia kỷ niệm gọi là
Animisalocana Cetiya ở Bồ Đề Đạo Tràng
Trong sách “Hành Hương Xứ Phật,” tác giả Phạm Kim Khánh kể rằng
Đức Phật bày tỏ lòng biết ơn cây bồ đề đã che mưa đỡ nắng cho Ngài suốt thời
gian chiến đấu để thành đạt Đạo Quả, Ngài đứng cách một khoảng xa để chăm chú
nhìn cội bồ đề trọn một tuần không nháy mắt. Về sau, nơi Đức Phật đứng trọn tuần
lễ để nhìn cây bồ đề, Vua Asoka (A Dục) có cho dựng lên một bảo tháp kỷ niệm gọi
là Animisalocana Cetiya.
Trong một tiền kiếp, Đức Phật khi mang thân một con chim két
đã bày tỏ lòng biết ơn một vườn cây.
Tích truyện Kinh Pháp Cú kệ 32 kể về trưởng lão Thera
Nigamavasi Tissa.
Ngài sinh trưởng trong một thị trấn nhỏ gần thành Savatthi.
Sau khi trở thành một vị sư, ngài sống rất đơn sơ, rất ít nhu cầu. Khi đi khất
thực, ngài thường tới ngôi làng nơi các thân nhân của ngài cư ngụ và nhận bất cứ
thứ gì họ cúng cho ngài. Ngài tránh các sự kiện lớn. Ngay cả khi Trưởng giả Cấp
Cô Độc và Quốc vương Pasenadi của Kosala làm các lễ cúng dường lớn, ngài cũng
không tham dự.
Một số vị sư thắc mắc vì ngài ưa gần thân nhân và vì ngài
không chịu tham dự các lễ cúng dường lớn do Trưởng giả Cấp Cô Độc và Quốc vương
Pasenadi tổ chức. Khi chuyện kể tới Đức Phật, mới triệu ngài Nigamavasi Tissa tới
và hỏi. Trưởng lão trình với Đức Phật rằng ngài tới làng các thân nhân chỉ để
khất thực, nhưng khi thấy đủ thực phẩm là thôi, không đi thêm, và rằng ngài
không bận tâm chuyện thực phẩm ngon hay dở.
Đức Phật ca ngợi ngài Nigamavasi Tissa trước hội chúng, và
nói rằng sống hạnh ít muốn và biết đủ là hạnh của Đức Phật và các bậc Thánh, và
nói rằng tất cả các sư phải nên như thế.
Rồi Đức Phật kể chuyện tiền thân.
Một thời, vua chim két sống trong một vườn cây sung bên bờ
sông Hằng, với nhiều chim két thần dân. Khi trái cây bị ăn hết, tất cả các chim
két rời bỏ vườn cây, chỉ trừ vua chim két tự biết đủ với bất cứ những gì còn
trên cây, cho dù là chồi, mầm, lá hay vỏ cây. Đế thiên Sakka thấy như thế, mới
thử xem giới hạnh của vua chim két, dùng thần lực làm cho cây héo rụi. Kế tiếp,
Đế thiên Sakka hóa thân làm một con ngỗng bay tới hỏi vua chim két là vì sao
không chịu rời bỏ cây khô, trong khi các chim khác đã bay đi hết, và tại sao
không tìm các cây khác mang trái. Vua chim két trả lời, “Bởi vì lòng biết ơn đối
với cây này, tôi không bỏ đi, và khi nào tôi còn có thể kiếm đủ ăn để sống, tôi
sẽ không rời bỏ cây đi. Tôi cảm thấy sẽ
là vô ơn khi rời bỏ cây này, mặc dù cây đã mất sức sống.”
Thán phục, Đế thiên Sakka hiện lại thân vua trời, lấy nước
sông Hằng tưới vào cây héo, và tức khắc cây tươi trở lại, cành xanh trở lại và
đầy trái.
Vua chim két đó là tiền thân Đức Phật. Còn tiền thân của tỳ
kheo Anuruddha là Đế thiên Sakka. Kế tiếp, Đức Phật đọc lên bài kệ 32 trong
Kinh Pháp Cú, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu là:
32. “Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết Bàn.”
Nghe như thế, Trưởng lão Tissa liền đắc quả A La Hán.
Trong bản chú giải ghi rằng “không bị thối đọa” (will not
fall away) là vững vàng trong pháp Thièn Chỉ và Quán (Tranquillity and Insight
Development).
Chúng ta nhìn thấy rằng, Đức Phật đã biết ơn một cội cây che
mưa nắng cho ngài, và ngay tới một con chim cũng biết ơn một cây sung nơi chim
một thời ăn trái.
Huống gì là, chúng ta đang mang bốn ơn vô cùng lớn: ơn ba mẹ,
ơn thầy bạn, ơn đất nước, ơn chúng sanh…
(Nguồn: thuvienhoasen)
Nhận xét
Đăng nhận xét