KHI NÀO CHIM SẮT BAY
KHI NÀO CHIM SẮT BAY
Hành Trình Phật Giáo Về Phương Tây
Ni Sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh
dịch Việt
Nguyên tác: Know Where
You’re Going (When The Iron Eagle Flies).
Vesion: 9/10/2019
10:39 AM
Nhà xuất bản Phương
Đông
Mục Lục
Dẫn nhập
Lời bạt
Cảm niệm
Lời người dịch
Về tác giả
Lời Giới Thiệu
1. Lý Do Và Phương Pháp Tu Thiền
2. Bản Chất Tâm
3. Quán Từ Bi
4. Nhân Quả Duyên Sinh
5. Duyên khởi Siêu Việt
6. Tự Tin và Tín Tâm
7. Quán Cảm Thọ
8. Hỷ
9. Thiền Định
10. Một Phương Pháp Thiền
11. Những Bước Kế Tiếp
12. Các Tầng Thiền Định Vô Sắc
13. Bản Tâm Chân Thật Của Mọi Vật
14. Sự Tỉnh Ngộ
15. Buông Xả Và Giải Thoát
16. Ngày Qua Ngày
Dẫn Nhập
Tựa quyển sách nầy được lấy ra từ một lời tiên tri của
Padmasambhava, một nhà thông thái Ấn Độ, ở thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên, người
đã du hành đến Tây Tạng để thiết lập nền tảng Phật giáo.
Nguyên câu tiên tri như sau: “Chừng nào chim sắt bay, ngựa
chạy trên bánh xe, người Tây Tạng phải lang thang khắp cùng trái đất, lúc đó Phật
pháp sẽ được truyền đến đất nước của người da đỏ.” (‘Đất của người da đỏ’, được
xem là Tây phương, vì đối với người Á châu, da người Tây phương đỏ hồng).
Mã lực của các xe hơi, “con chim sắt” máy bay là một phần của
đời sống chúng ta hôm nay, và người dân Tây Tạng đúng là đã tản mác khắp nơi
trên thế giới. Các vị thầy Phật giáo và những lời dạy của Đức Phật (Pháp) đã
truyền lan từ những ngọn núi hùng vĩ của Tây Tạng, từ những tu viện trong rừng ở
Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, để hội nhập, hoà hợp, thăng hoa ở phương Tây. Từ
đó, mang đến cho các tôn giáo Tây phương, một nguồn sinh lực, sức sống mới.
Lời Bạt
Sau khi đạt được đạo giải thoát giác ngộ, Đức Phật đã có nhiều
năm truyền bá Phật pháp ở miền bắc Ấn độ. Đức Phật đã khuyên các hàng đệ tử
không nên chỉ nghe, hành theo lời dạy của Ngài dựa vào lòng tin, mà phải suy tư
về những lời dạy đó. Rồi khi thấy chúng hợp lý, đúng thì phải đem những lời dạy
đó ra thực hành. Vì thế, những lời dạy của Đức Phật được truyền tụng vì chúng
khiến người nghe thức tỉnh, đem lại lợi ích trong cuộc sống của họ, do đó, họ lại
truyền tụng cho người khác. Qua thời gian Phật giáo được lan truyền khắp Á
châu.
Tuy nhiên những lời dạy quan trọng của Đức Phật không chỉ hạn
chế ở một không gian địa lý nào, vì những lời dạy đó có thể áp dụng cho tất cả
nhân loại. Những năm gần đây người Tây phương có nhiều cơ hội tiếp xúc với những
truyền thống sống động của Phật giáo. Họ trở nên quan tâm về Phật giáo; có người
còn trở thành Phật tử. Một trong những người đó là Ni Sư Ayya Khema. Ở đây Ni
Sư trình bày lại những bài giảng trong một khóa tu thiền do Ni Sư hướng dẫn ở
Canada, dựa vào những kinh nghiệm tu chứng của chính bản thân. Những nỗ lực nầy
thật đáng tán thán, tôi mong rằng qua những lời giảng dạy nầy, tất cả chúng
sanh sẽ được tâm bình an.
Tenzin Gyatso
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Cảm Niệm
Quyển sách nầy dành tặng cho cha mẹ tôi, cho tất cả các vị
thầy, các đệ tử, các bạn bè của tôi, và tất cả những ai luôn bảo vệ, hướng về
Phật pháp ở thời quá khứ, cũng như trong hiện tại.
Lòng biết ơn sâu xa của tôi đặc biệt dành cho Ni sư Pema
Chodron, người đã có lời mời tôi đến đây thuyết giảng, và Ane Trime Lhamo, người
đã viết lại từ băng cassette các bài thuyết pháp tôi đã sử dụng trong quyển
sách nầy, cũng như xin cảm ơn Claudia Klump, người đã nhiệt tình giúp đỡû trong
công tác đánh máy.
Nguyện cho chúng sanh ở khắp nơi được an vui, lợi ích từ những
bài giảng nầy.
Ayya Khema
Buddha-Haus,
Đức, tháng 9 – 1989
Lời Người Dịch
Lần nữa, nhờ sự gia hộ của Ni Sư Ayya Khema, tôi lại có đủ
duyên lành để hoàn tất việc chuyển ra Việt ngữ quyển When The Iron Eagle Flies
của Ni Sư.
Bắt đầu dịch những trang đầu tiên của quyển When The Iron
Eagle Flies (Khi Nào Chim Sắt Bay) từ năm 2002, nhiều lúc tôi tưởng chừng phải
bỏ cuộc, vì sự yếu kém của mình. Nhưng tôi đã cầu nguyện đến giác linh của Ni
Sư. Tôi đã tự nguyện sẽ cố hết sức mình để hoàn tất, dầu quyển sách dịch nầy chắc
chắn sẽ có nhiều sai sót. Chỉ mong rằng nó sẽ là viên gạch đầu cho những ai muốn
sửa chữa, bổ sung để bản dịch được hoàn hảo hơn.
Mong bạn đọc đón nhận bản dịch nầy với lòng từ bi, hỷ xả.
Xin hiểu rằng mọi sai sót là do sự hiểu biết hạn hẹp của người dịch, hoàn toàn
không liên quan đến trí tuệ uyên thâm của Ni Sư Ayya Khema. Cầu xin Ni Sư lượng
thứ cho sự mạo muội nầy. Mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các bậc tôn sư,
các dịch giả uyên bác, cũng như bạn đọc khắp nơi để quyển sách được hoàn thiện
hơn trong những lần in sau.
Xin tri ân sâu xa Ni Sư Ayya Khema đã để lại cho đời nhiều
quyển sách về Phật giáo rất hữu ích.
Xin chân thành cảm ơn NXB Wisdom Publications, MA USA, đã chấp
nhận cho chúng tôi được chuyển dịch và ấn tống quyển sách hữu ích nầy.
Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh
Nguyện trọn thành Phật đạo.
Tháng 6, 2005
Diệu Liên-Lý Thu Linh
Về Tác Giả
Ayya Khema sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu
sống ở Bá Linh cho đến khi cuộc chiến bắt đầu, bà trốn chạy sang Scotland. Sau
đến sống ở Thượng Hải, ở đó bà và gia đình bị quân đội Nhật giam giữ trong các
trại dành cho tù nhân chiến tranh. Cha bà đã mất trong lúc bị giam cầm. Sau chiến
tranh, bà chu du khắp nơi ở châu Á, nhất là các nước vùng Hy Mã Lập Sơn, và tu
Thiền.
Năm 1964 Bà di cư sang Mỹ cùng chồng và hai con. Sau một thời
gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, bà bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế
giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong
một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung Tâm Nữ Phật tử Quốc Tế
(International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa
Nun’s Island), tại Tích Lan.
Ni sư thọ đại giới ở Tích Lan vào năm 1979 và là một trong
những người tiên phong trong việc tranh đấu cho ni giới.
Vào năm 1987, Ni sư tham gia tổ chức hội thảo quốc tế đầu
tiên dành cho Ni giời, mà kết quả là việc thành hình của Sakyadhita, một tổ chức
của nữ Phật tử khắp nơi trên thế giới.
Ni Sư đã viết hơn 20 đầu sách về Thiền và Phật giáo bằng tiếng
Anh và tiếng Đức. Quyển nổi tiếng nhất là Being Nobody, Going Nowhere (Việt Dịch:
Vô Ngã, Vô Ưu), được giải thưởng Christmas Humphreys Memorial Award. Các sách của
Ni Sư được thể hiện bằng một sự hiểu biết sâu xa về các công phu tu hành, thành
quả của việc hành thiền, là lời kêu gọi mọi người hãy đơn giản hoá cuộc sống và
thanh lọc tâm trí bằng cách ứng dụng những lời Phật dạy.
Ni Sư Ayya Khema còn là giám đốc tinh thần của Buddha-Haus
(Ngôi Nhà Phật) ở Đức, nơi Ni Sư mất năm 1997 do bịnh ung thư.
Lời Giới Thiệu
Trước khi bắt đầu, tôi muốn giải thích về nguồn gốc của các
bài thuyết pháp của Đức Phật. Ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt
(parinibbàna), kết tập đầu tiên của các vị A-la-hán (những vị đã đắc đạo) được
thành hình. Lúc đó các bài thuyết pháp của Đức Phật được phân loại và xếp đặt lại
một cách hệ thống. Khi còn tại thế, Đức Phật thường thuyết giảng các đề tài tùy
duyên, thường là để trả lời các câu hỏi. Lúc đó, các bài thuyết giảng của các
tôn giáo đều được truyền giảng bằng miệng.
Ở lần kết tập nầy của các vị a-la-hán, tôn giả Ananda, người
đã làm thị giả cho Đức Phật trong hai mươi lăm năm đã tụng các kinh và Ngài
Upali đã truyền khẩu các giới luật cho tăng ni. Có khỏang 17,500 bài thuyết
pháp của Đức Phật đã được lưu truyền bằng hình thức đó. Khoảng một trăm năm
sau, các vị A-la-hán lại được kết tập lần nữa. Vì có nhiều ý kiến rất khác
nhau, đặc biệt là về các giới luật, nên đại chúng (của các tăng và ni) đã có
khuynh hướng chia rẽ. Vì thế việc cần hoàn chỉnh tất cả các kinh luật của Đức
Phật để có cơ bản dựa vào, là điều thiết yếu.
Hai trăm năm mươi năm sau ngày Đức Phật diệt độ, một kết tập
thứ ba của các vị A-la-hán lại được thiết lập. Lúc đó các vị đại đệ tử của Đức
Phật là các ngài Ananda, Mục-Kiền-Liên và Xá-lợi-phất, mỗi vị đều có một đệ tử
còn sống. Dĩ nhiên, các vị nầy đều đã hơn trăm tuổi, nhưng sự có mặt của các vị
là để chứng minh cho các kinh điển được truyền thừa. Ở thời điểm đó, các kinh
điển, giới luật được viết bằng ký tự Sinhalese trong Pali ngữ. Ngày nay chúng
ta có thể đọc được tiếng Pali bằng ký tự La mã.
Lúc đó vua A Dục, vị đại vương Phật giáo của Ấn độ, đã phái
con, là thầy Mahindra, đến Tích Lan để truyền bá Phật giáo. Vua Tích Lan hoan hỉ
đón nhận giáo lý mới mẻ nầy, nhiều hàng quý tộc cũng trở thành tỳ-kheo
(bhikkhus). Các vị tỳ-kheo đã đảm nhiệm trách vụ chuyển tàng kinh Pali sang chữ
viết. Tiếng Pali gọi các kinh điển nầy là Tipitaka (ti có nghĩa là ba, và
pitaka là giỏ). Tại sao gọi như thế cũng có lý do của nó. Nguyên cảo của kinh
được viết trên lá bối (lá cây cọ) bằng những mũi dao găm nhọn như ngòi viết. Mực
được tạo ra bằng những quả dâu được chà lên khắp mặt lá, sau đó được lau nhẹ,
chỉ để lại màu trên những chữ đã được khắc sâu. Lá bối không đóng lại được
thành sách, mà phải mang trong những giỏ xách. Ba giỏ xách riêng biệt được xủ dụng:
một cho Kinh (suttas), một cho giới Luật (Vinaya) và một cho Luận (Abhidhamma).
Kể từ đó, các vị tỳ-kheo người Tích Lan đã sao chép lại các bản chính trên lá bối
cũng bằng cách trên, vì dần dần các lá cây bị khô nát. Việc làm đó đã tạo thành
truyền thống lâu đời cũng như là niềm tự hào của các tỳ-kheo sống trong các tu
viện xây quanh tảng đá nơi thầy Mahindra lần đầu đến đây giảng pháp.
Kinh điển luôn đi kèm với truyền khẩu; vì đọc sách không thể
nào giống với nghe giảng Pháp từ các bậc thầy. Kinh điển, do đó, được truyền khẩu
từ thời Đức Phật cho các vị Thầy rồi đến đệ tử, trải qua bao thăng trầm, bao biến
động, và vẫn còn tiếp tục như thế đến ngày nay.
Để được lợi ích từ một buổi thuyết pháp, ta phải lắng nghe với
cả tâm trí. Trí tư duy; tâm tin tưởng dầu có thể chưa hoàn toàn hiểu hết lời giảng.
Nhưng tâm trí kết hợp như thế sẽ giúp ta dễ nắm bắt được những ý nghĩa ở đằng
sau lời giảng. Lời nói rất trừu tượng, có thể bị bóp méo. Tâm chúng ta giống
như các nhà ảo thuật, có khả năng biến hoá việc nầy thành việc kia.
Giáo lý của Đức Phật như một tấm bản đồ khổng lồ với bao nơi
chốn và con đường dẫn ta đi từ nơi nầy đến nơi kia. Đây là món quà đặc biệt của
Đức Phật, dành cho tất cả những ai cần đến nó. Tuy nhiên vì chưa đi hết con đường,
không ai có thể chắc rằng con đường còn ở phía trước đã được vạch ra đúng hướng.
Trong trường hợp đó chỉ có một cách giải quyết duy nhất là rộng mở tâm trí mình
để xem sự thật có được phơi bày ra không. Tâm phải có đủ lòng tin để bước tới,
nếu không các chấp kiến, những quyết định đầy lý luận sẽ là vật cản đường.
Giáo lý nầy, đã được thực chứng qua các thế kỷ, là một trong
những báu vật mà nhân loại sở hữu. Các lời dạy của bậc đạo sư có hiệu lực mạnh
mẽ trong việc chuyển đổi từ đau khổ (dukkha) đến hạnh phúc (sukkha). Qua cửa ngỏ
tâm trí, Đức Phật khuyên chúng ta phải học lẫn hành. Với trí tuệ dẫn lối, sự thực
hành thực sự đưa ta đến đích.
Bài kinh các bạn sẽ nghe, gọi là kinh Upanita trích từ
Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh - Connected Discourses), chỉ cho ta con đường
đi từ những phiền não, khổ đau hiện tại đến giải thoát. Chúng ta có thể làm được
điều đó trong khóa tu thiền bảy ngày nầy không? Đức Phật nói chúng ta có thể
làm được. Trong kinh Satipatthana Sutta (Tứ Niệm Xứ), về nền tảng chánh niệm, Đức
Phật đã nói rằng nếu hành giả thực hành chánh niệm trong bảy năm, chắc chắn sẽ
đạt được quả vị A-la-hán hay bất lai (anagami). Đức Phật lại tiếp, “Mà nầy,
không cần bảy năm, chỉ cần sáu, năm, bốn, ba, hai hay chỉ một năm. Chỉ cần mười
một tháng, mười, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai hay chỉ một tháng. Nầy,
chỉ cần bảy ngày”. Dĩ nhiên, đó là nếu chúng ta có được sự chánh niệm tuyệt đối.
Có thể đạt được hoàn toàn giải thoát chỉ trong bảy ngày là điều khó có được,
nhưng để giảng về phương pháp thực hành trong khoảng thời gian đó lại là điều
hoàn toàn có thể thực hiện được.
Có câu chuyện kể rằng Đức Phật trong một lần đi với các tăng
chúng trong rừng. Cầm một nắm lá trong tay, Ngài đã nói với các vị đệ tử, “Lá
trong rừng hay lá trong nắm tay ta nhiều hơn?” Các đệ tử Phật bèn thưa: “Bạch Đức
Thế Tôn, lá trong rừng phải là nhiều hơn lá trong tay Thế tôn”. Đức Phật tiếp,
“Đúng thế. Những điều ta giảng cho các ông, so với những gì ta biết, cũng giống
như nắm lá trong tay ta, nhưng thế cũng quá đủ để đạt được giác ngộ giải
thoát”.
Chúng ta có thể cảm nhận được tính chính xác của Tam Tạng
kinh khi tên, tước hiệu của các vị đệ tử có mặt lúc Đức Phật giảng Pháp đều được
nhắc đến. Địa danh nơi giảng pháp cũng thường được mô tả, và tên của các vị đệ
tử được lập đi lập lại nhiều lần đến nỗi ta cảm thấy rất thân thuộc với họ. Nhiều
bài kinh bắt dầu bằng chữ “Evam me suttam,” có nghĩa là “Như tôi đã được nghe,”
là lời mở đầu của ngài A Nan ở lần kết tập đầu tiên của các vị A-la-hán. Tiếp đến
Ngài Ananda cho biết ông đã nghe bài giảng ở đâu, những ai cũng có mặt lúc đó.
Ngài làm thế để chứng tỏ tính chính xác của bài kinh được truyền lại; nếu có gì
vướng mắc, các vị đệ tử khác có thể được tham vấn để xác minh các lời của Ngài.
Chúng ta đầy lòng biết ơn và sung sướng biết bao được là những
người có mặt trên mặt đất nầy, được có cơ hội nghe Phật pháp. Giữa hơn năm tỉ
người có mặt trên trái đất nầy, đó đúng là kết quả của nghiệp lành chúng ta đã
gieo trồng. Lòng biết ơn và hạnh phúc sẽ khiến ta mở lòng đón nhận Phật pháp.
Chỉ có tri thức không, chưa đủ. Sự hành Thiền sẽ đem đến cho ta những kinh nghiệm,
mà lúc nào cũng đầy tình cảm, là ‘đặc tính của trái tim”.
Đức Phật đã là một vị thái tử, đã sống trong nhung lụa.
Nhưng Ngài nhận thấy rằng những xa hoa, những quyền lợi vật chất không đem đến
hạnh phúc cho Ngài. Điều đó cũng đúng trong cuộc sống của chúng ta hôm nay.
Chúng ta có thể cũng có bao quyền lợi, bao cao sang, nhưng hạnh phúc vẫn không ở
trong tầm tay. Đức Phật đã nghĩ rằng chính những xa hoa, vật chất cản trở Ngài
tìm đến sự thật. Ngài đã rời bỏ hoàng cung để sống đời khổ hạnh trong sáu năm,
nhưng điều đó cũng không giúp Ngài tìm được chân lý. Sau khi đã tìm được con đường
giác ngộ của riêng mình, Đức Phật đã nói sự hưởng thụ thái quá hay sự khổ hạnh
tột cùng đều không mang lại kết quả, chỉ có trung đạo, tránh xa hai thái cực
trên, là đem lại kết quả.
Trung đạo luôn là con đường của sự đơn giản –đem lại những
thứ ta cần, và chỉ thế không có gì hơn. Trong các bài thuyết pháp của Đức Phật,
ta cũng nhận thấy sự giản đơn đó. Ít có các nghi lễ, không giáo điều, không ngụy
trang. Bài kinh tôi đã chọn cho khóa tu thiền nầy cũng mang đầy đủ những yếu tố
cần thiết cho con đường tâm linh. Cũng như trong những điều dạy của Đức Phật,
đó là một con đường chuyển hóa dần dần. Bắt đầu bằng những kinh nghiệm đời thường
của chúng ta, rồi dần hướng ta đến giải thoát, đến sự tự do tuyệt đối.
Nhận xét
Đăng nhận xét