THIỀN ĐỊNH
THIỀN ĐỊNH
Yuval Noah Harari
– Nguyễn Văn Nhật dịch
Hãy chỉ quan sát
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức.
Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Tôi chẳng tìm được câu trả lời
nào cho những câu hỏi lớn của mình về cuộc sống. Nói riêng, tôi chẳng hiểu tại
sao lại có quá nhiều đau khổ trong thế giới và trong cuộc sống riêng mình, và
tôi có thể làm được gì trước tình trạng đó. Tất cả những gì tôi gặt hái được từ
những người chung quanh cũng như từ những quyển sách tôi đọc chỉ là những điều
bịa đặt tinh vi; các huyền thoại tôn giáo về những vị thần và những vùng thiên
đường, các huyền thoại dân tộc chủ nghĩa về đất mẹ và những sứ mạng lịch sử,
các huyền thoại lãng mạn về tình yêu và những cuộc phiêu lưu, hay các huyền thoại
kiểu tư bản chủ nghĩa về sự tăng trưởng kinh tế cũng như việc mua sắm và tiêu
thụ những thứ vớ vẩn như thế nào thì sẽ mang lại hạnh phúc cho mình. Tôi đã có
đủ khả năng phán đoán để nhận thức rằng tất cả những điều đó phần nhiều chỉ là
bịa đặt, nhưng tôi chẳng có chút ý niệm nào để tìm ra đâu là chân lý.
Khi bắt đầu vào đại học, tôi nghĩ đó có lẽ là nơi lý tưởng để
tìm ra sự thật. Nhưng rồi tôi đã thất vọng. Thế giới học thuật cung cấp cho tôi
những công cụ có tác động đủ mạnh để giải thích về sự kiến tạo tất cả những huyền
thoại mà loài người đã từng sáng tạo, nhưng điều đó cũng không mang lại những
câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi lớn về kiếp nhân sinh. Ngược lại, môi
trường ấy khuyến khích tôi tập trung vào những câu hỏi ngày càng cạn cợt. Dần dần,
tôi phát hiện ra mình đang viết một luận án tiến sĩ tại Viện Đại học Oxford về
các bản văn tự truyện của những người lính thời trung cổ. Như là một thú tiêu
khiển phụ, tôi không ngừng đọc những quyển sách triết và tham gia vào nhiều cuộc
tranh luận triết học, thế nhưng mặc dù hoạt động này mang lại cho tôi những
giây phút giải trí trí thức không ngừng nghỉ, nó không hề mang lại một chút tuệ
giác thực sự nào. Điều đó quả là một sự vỡ mộng.
Dần dần, người bạn thân Ron Merom của tôi đề nghị rằng tôi cố
gắng gạt qua một bên những quyển sách và những cuộc tranh luận trí thức ấy
trong vài ngày để tham gia một khóa thiền Vipassana (Trong ngôn ngữ Pali, một
ngôn ngữ Ấn Độ cổ đại, vipassana có nghĩa là sự nội quán). Tôi đã nghĩ, đây lại
là một trò thờ cúng lố lăng nào đó của Đợt Sống Mới, và vì tôi hoàn toàn không
muốn nghe nói đến thêm một loại huyền thoại nào khác, tôi đã bác bỏ chuyến đi.
Thế nhưng sau gần một năm kiên trì thúc cùi chỏ, vào tháng Tư năm 2000, người bạn
này đã lôi được tôi đến một khóa tu Vipassana kéo dài mười ngày.
Từ trước, tôi biết rất ít về thiền định và cho rằng hẳn là
trò này cũng dính líu đến tất cả những loại lý thuyết huyền bí phức tạp. Cho
nên tôi đã sững sờ khi thấy giáo pháp này hóa ra lại thực tiễn đến như vậy. Vị
giảng sư của khóa học, ngài S.N. Goenka, chỉ thị cho tất cả học viên phải ngồi
khoanh chân và nhắm mắt, rồi tập trung tất cả sự chú ý của mình ở hơi thở ra và
hơi thở vào ngay hốc mũi. Ngài không ngừng bảo “Đừng làm gì cả. Đừng cố kiểm
soát hơi thở hoặc thở theo một cách riêng nào. Hãy cứ quan sát thực tại của khoảnh
khắc hiện tiền, bất kể điều đó là gì. Khi hơi thở đi vào, quý vị chỉ cần nhận
biết - nay hơi thở đang đi vào. Khi hơi thở đi ra, quý vị chỉ cần nhận biết -
nay hơi thở đang đi ra. Và khi quý vị lơi lỏng sự tập trung của mình, tâm quý vị
bắt đầu lang thang vào ký ức hay tưởng tượng, quý vị cũng cứ chỉ nhận biết -
nay tâm ta đã lang thang và rời bỏ hơi thở”. Đó chính là điều quan trọng nhất
có người đã từng nói với tôi.
Khi người ta đặt ra những câu hỏi lớn về kiếp người, thường
là họ tuyệt đối không quan tâm đến việc biết được khi nào hơi thở đi vào hốc
mũi của họ và khi nào thì nó đi ra. Đúng hơn, họ muốn biết những chuyện như là
điều gì xảy ra sau khi ta chết. Thế nhưng điều thực sự bí ẩn về cuộc đời chẳng
phải là chuyện gì xảy ra sau khi ta chết, mà là điều gì xảy ra trước khi ta chết.
Nếu muốn hiểu biết về cái chết, người ta trước hết phải hiểu biết về sự sống.
Người ta vẫn hỏi,
“Khi tôi chết, phải chăng tôi hoàn toàn tan biến? Phải chăng tôi sẽ lên thiên
đàng? Phải chăng tôi sẽ tái sinh trong một thân thể mới?”. Những câu hỏi này đặt
nền tảng trên một giả định rằng có một cái “tôi” tồn tại từ lúc sinh ra đến lúc
chết đi, và câu hỏi ấy hàm ý là “Điều gì sẽ xảy ra cho cái “tôi” ấy vào lúc chết?”.
Thế nhưng cái tồn tại từ lúc sinh ra đến lúc chết đi ấy là cái gì? Thân xác này
không ngừng thay đổi trong từng khoảnh khắc, não không ngừng thay đổi trong từng
khoảnh khắc, và tâm cũng không ngừng thay đổi trong từng khoảnh khắc. Ta càng tự
quan sát mình thật gần, càng hiển nhiên là ta nhận biết rằng chẳng có gì tồn tại
kể cả từ khoảnh khắc này qua khoảnh khắc kế tiếp. Vậy thì cái gì đã gắn kết với
nhau cả toàn bộ cuộc đời? Nếu ta không biết được câu trả lời cho câu hỏi ấy thì
quả là ta không hiểu gì về cuộc đời, và chắc chắn là ta chẳng có cơ may nào để
hiểu về cái chết. Chỉ khi ta phát hiện được điều gì đã gắn kết cuộc đời lại với
nhau, bấy giờ câu trả lời cho câu hỏi lớn về cái chết cũng trở nên thật hiển
nhiên.
Có người nói, “Linh hồn tồn tại từ lúc sinh ra đến khi chết
đi và như vậy nó kết nối toàn bộ lại thành cuộc sống”, thế nhưng đấy cũng chỉ
là điều bịa đặt. Có bao giờ bạn đã quan sát được một linh hồn chưa? Bạn có thể
thăm dò điều đó ở mọi khoảnh khắc, không chỉ vào khoảnh khắc của cái chết. Nếu
bạn có thể hiểu được điều gì xảy ra cho bạn vào lúc một khoảnh khắc chấm dứt và
một khoảnh khắc khác bắt đầu, bạn sẽ hiểu được điều gì xảy ra cho bạn vào khoảnh
khắc của sự chết. Nếu bạn có thể thực sự tự quan sát mình trong suốt thời gian
của một hơi thở, bạn sẽ hiểu tất cả điều đó.
Điều đầu tiên tôi học được bằng cách quan sát hơi thở của
mình là mặc dù tất cả những quyển sách tôi đã từng đọc cũng như tất cả những
khóa học tôi đã tham dự ở trường đại học, hầu như tôi chẳng biết gì về tâm của
mình, và tôi lại càng chẳng kiểm soát được tâm mình chút nào. Mặc cho tất cả những
cố gắng của mình, tôi chẳng thể nào quan sát được thực tại về hơi thở vào và ra
ngay hốc mũi tôi lâu hơn mười giây trước khi tâm tôi xao lãng. Suốt bao nhiêu
năm, tôi đã sống với ấn tượng rằng tôi là chủ của cuộc đời mình, và là chủ tịch
tổng giám đốc cho cái thương hiệu cá nhân của chính tôi. Nhưng chỉ vài giờ thiền
tập đủ cho tôi thấy rằng tôi chẳng có một chút quyền kiểm soát nào trên chính
mình. Tôi chẳng phải là chủ tịch tổng giám đốc mà chỉ là một kẻ gác-dan, một
tên canh cổng. Tôi đã được yêu cầu đứng canh trước cổng cái thân xác của mình -
hai hốc mũi - và chỉ việc quan sát bất kỳ thứ gì đi vào hay đi ra. Thế mà chỉ
sau vài khoảnh khắc, tôi đã mất tập trung rồi bỏ nhiệm sở. Đó chính là kinh
nghiệm làm mở mắt.
Khi khóa học tiến triển, các học viên được dạy quan sát
không chỉ hơi thở của họ mà là tất cả mọi cảm giác trên toàn thân. Chẳng phải
là những cảm giác khác thường của sự đê mê hay ngây ngất, mà đúng hơn là những
cảm giác rất thế tục, thật bình thường: nóng bức, ngứa ngáy, đau đớn… Kỹ thuật
nội quán vipassana dựa trên tuệ giác cho rằng dòng tâm thức liên kết chặt chẽ với
những cảm giác của thân. Làm trung gian giữa tôi và thế giới này, luôn luôn có
những cảm giác của thân. Tôi không bao giờ phản ứng với những sự kiện thuộc thế
giới bên ngoài; tôi luôn luôn phản ứng với những cảm giác trên chính thân xác
mình. Khi cảm giác là không dễ chịu, tôi phản ứng bằng sự ghét bỏ. Khi cảm giác
là thích thú, tôi phản ứng bằng cách mong mỏi nhiều hơn nữa. Ngay cả khi chúng
ta nghĩ rằng mình phản ứng với điều người khác đã làm, đối với những dòng trạng
thái trên trang Twitter của ông Tổng thống Donald Trump chẳng hạn, hay đối với
một ký ức xa xưa thời thơ ấu của chính mình, thì sự thực là chúng ta luôn luôn
phản ứng với những cảm xúc thân xác trực tiếp của mình. Nếu chúng ta giận điên
lên vì có kẻ nào dám sỉ nhục đất nước mình hay các vị thần thánh mà mình tôn thờ,
điều khiến cho sự sỉ nhục đó trở nên không thể chịu đựng nổi chính là những cảm
giác cháy bỏng bùng lên trong khoang dạ dầy cùng với những dải buốt nhức kẹp
quanh đầu của chúng ta. Đất nước ta chẳng cảm nhận điều gì, nhưng thân thể ta
thực sự bị tổn thương.
Bạn muốn biết cơn giận là gì ư? Dễ thôi, hãy cứ quan sát những
cảm giác xuất hiện rồi trôi qua ở chính thân xác của bạn trong lúc bạn đang giận
dữ. Khi đến với khóa tu này, tôi đã được hai mươi bốn tuổi, và đã trải qua những
cảm giác giận dữ có lẽ đến cả chục ngàn lần trước đó, thế nhưng tôi chưa bao giờ
bận tâm quan sát xem cơn giận thực sự mang lại những cảm giác gì. Bất cứ lúc
nào cáu giận, tôi chỉ chằm chằm chú ý đến đối tượng của cơn giận của mình - điều
gì đó ai đó nói hay làm - chứ không quan tâm đến thực tại cảm xúc của sự giận dữ.
Tôi nghĩ rằng tôi đã học được rất nhiều về chính mình và về
loài người nói chung bằng cách quan sát cảm giác của mình trong suốt mười ngày ấy
hơn là những gì tôi đã học trong suốt cuộc đời mình cho đến bấy giờ. Và để được
như vậy, tôi đã không phải chấp nhận bất kỳ điều bịa đặt nào, lý thuyết nào hay
huyền thoại nào. Tôi chỉ phải quan sát thực tại như nó đang diễn ra. Điều quan
trọng nhất mà tôi nhận thức được là nguồn gốc sâu xa của nỗi đau khổ của tôi nằm
ngay trong những mô hình tâm thức của chính tôi. Khi tôi muốn một điều gì đó mà
điều đó không xảy ra, tâm thức của tôi phản ứng bằng cách tạo ra sự đau khổ.
Đau khổ không phải là một điều kiện khách quan từ thế giới bên ngoài. Đó chỉ là
một phản ứng thuộc về tâm được tạo nên bởi chính tâm thức của tôi. Việc học được
điều đó chính là bước đầu tiên hướng đến việc chấm dứt tạo ra đau khổ thêm nữa.
Kể từ khóa tu đầu tiên vào năm 2000 ấy, tôi bắt đầu thiền định
mỗi ngày hai giờ đồng hồ, và mỗi năm, tôi lại tham gia một khóa tu kéo dài một
hay hai tháng. Đó không phải là việc trốn thoát thực tại. Đó chính là để chạm
vào thực tại. Ít nhất hai giờ đồng hồ mỗi ngày tôi thực sự quan sát thực tại
như chính nó, trong khi suốt hai mươi hai tiếng đồng hồ còn lại, tôi bị tràn ngập
với những thư điện tử, những mẩu tin ngắn trên Twitter, những đoạn phim hình ảnh
động về những con chó con xinh xắn. Nếu không có sự tập trung và sự trong sáng
do phương pháp thực hành này mang lại, tôi đã không thể nào viết xong hai quyển
lược sử loài người (Sapiens) và lược sử tương lai (Homo Deus). Ít nhất là đối với
tôi, thiền định không bao giờ trở nên mâu thuẫn với nghiên cứu khoa học. Đúng
hơn, thiền định đã là một công cụ có giá trị trong bộ công cụ khoa học, đặc biệt
là khi cố gắng tìm hiểu tâm thức con người.
Đào từ hai đầu
Khoa học đã phát hiện rằng rất khó để giải mã những điều huyền
bí của tâm thức, chủ yếu vì chúng ta thiếu những công cụ hữu hiệu. Nhiều người,
kể cả nhiều nhà khoa học, có khuynh hướng lẫn lộn về tâm với não, nhưng chúng
thực sự là những sự kiện rất khác nhau. Não là một mạng lưới vật chất những tế
bào não, những khớp nối tế bào não và các phản ứng sinh hóa. Tâm là một luồng
kinh nghiệm chủ quan, chẳng hạn như đau đớn, dễ chịu, giận ghét, yêu thương…
Các nhà nghiên cứu về sinh học cho rằng bằng cách nào đó não sản xuất ra tâm,
và rằng các phản ứng sinh hóa trong hàng tỷ tế bào não bằng cách nào đó sản xuất
ra những kinh nghiệm như đau đớn hay thương yêu. Tuy nhiên, cho đến nay, chúng
ta tuyệt đối không có một giải thích nào về việc tâm xuất hiện từ não ra sao.
Làm thế nào khi hàng tỷ tế bào kích thích những tín hiệu điện theo những mô thức
nào đó thì ta cảm thấy đau đớn; và khi những tế bào ấy kích thích theo một mô
thức khác thì ta cảm thấy yêu thương? Chúng ta không có được một chút manh mối
nào cả. Vì thế, ngay cả khi tâm quả thực xuất hiện từ não đi chăng nữa, ít nhất
là vào lúc này, việc nghiên cứu vể tâm là một công việc khác với việc nghiên cứu
về não.
Việc nghiên cứu về não đang có những bước tiến nhảy vọt nhờ
sự trợ giúp của kính hiển vi, máy quét chụp não và máy điện toán có khả năng xử
lý cao. Nhưng chúng ta không thể thấy được tâm nhờ một kính hiển vi hay một máy
chụp quét não. Những thiết bị này cho phép chúng ta phát hiện những hoạt động
điện học và sinh hóa học trong não bộ nhưng không cho phép chúng ta tiếp cận bất
kỳ một kinh nghiệm chủ quan nào kết hợp với những hoạt động ấy. Cho đến bây giờ
là năm 2018, tâm thức duy nhất tôi có thể tiếp cận trực tiếp là tâm của chính
tôi. Nếu tôi muốn biết những chúng sinh khác đang kinh nghiệm những gì, tôi chỉ
có thể dựa trên những báo cáo thứ cấp, chắc chắn là phải chịu ảnh hưởng của những
sự giới hạn và méo mó.
Tất nhiên, chúng ta có thể thu thập rất nhiều báo cáo thứ cấp
từ rất nhiều người khác nhau, và sử dụng phương pháp thống kê để nhận dạng những
mô thức hồi quy. Những phương pháp như vậy đã cho phép những nhà tâm lý học và
các nhà khoa học về não bộ không chỉ gặt hái được nhiều hiểu biết về tâm mà còn
giúp cải thiện kể cả cứu được mạng sống của cả hàng triệu người. Tuy nhiên, rất
khó để vượt qua một số điểm quan trọng khi nhà nghiên cứu chỉ sử dụng những báo
cáo thứ cấp. Trong khoa học, khi bạn nghiên cứu một hiện tượng đặc biệt, điều tốt
nhất là phải quan sát trực tiếp hiện tượng ấy. Chẳng hạn, các nhà nhân học đã sử
dụng sâu rộng các nguồn thông tin thứ cấp, nhưng khi muốn thực sự hiểu rõ về nền
văn hóa của dân Samoa, sớm hay muộn, họ cũng phải ba-lô lên vai để đến thăm quần
đảo Samoa.
Tất nhiên, viếng thăm không thôi cũng chưa đủ. Một trang nhật
ký mạng được viết bởi một anh chàng du lịch ba-lô đã đi khắp quần đảo Samoa
không thể được coi là một bản nghiên cứu nhân học có tính cách khoa học, bởi vì
những người đi du lịch như vậy thiếu những công cụ và sự huấn luyện cần thiết.
Những quan sát của họ thường là quá ngẫu nhiên và đầy thiên kiến. Để trở thành
một nhà nhân học đáng tin cậy, ta phải học quan sát về văn hóa loài người theo
một cách khách quan và có phương pháp, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những ý
niệm hay phán đoán có sẵn. Đó là điều bạn học tập ở khoa nhân học và là điều
cho phép các nhà nhân học đóng một vai trò sinh động trong việc nối liền những
khoảng cách giữa các nền văn hóa của loài người.
Việc nghiên cứu khoa học về tâm thức con người hiếm khi tuân
theo mô hình của khoa nhân học. Trong khi các nhà nhân học thường báo cáo về những
chuyến viếng thăm của họ đến những vùng đảo xa hay những xứ sở huyền bí, các học
giả trong lĩnh vực ý thức hiếm khi thực hiện những hành trình cá nhân vào các
vương quốc của tâm. Vì tâm duy nhất mà tôi có thể trực tiếp quan sát được chỉ
là tâm của chính tôi; và bất kể việc quan sát văn hóa Samoa không thiên kiến
không bị ảnh hưởng bỏi những phán đoán có sẵn là điều khó khăn đến thế nào
chăng nữa, thì việc quan sát tâm thức của chính tôi một cách khách quan cũng vẫn
khó khăn hơn. Ngược lại, trong khi các học giả nghiên cứu về tâm đã phát triển
nhiều công cụ để thu thập và phân tích những báo cáo thứ cấp, khi vấn đề là
nghiên cứu vào chính tâm thức của mình thì chúng ta mới chỉ gãi trên bề mặt.
Trong tình trạng thiếu hẳn những phương pháp hiện đại để
quan sát tâm, chúng ta có thể thử một số công cụ đã được phát triển bởi các nền
văn minh tiền hiện đại. Nhiều nền văn hóa cổ đã cung hiến rất nhiều sự chú ý
vào việc nghiên cứu tâm thức, và họ không hề dựa vào việc thu thập những báo
cáo thứ cấp mà dựa vào việc huấn luyện người ta quan sát tâm của chính mình một
cách có hệ thống. Những phương pháp mà người cổ đại đã phát triển có thể được gọi
chung dưới thuật ngữ tổng quát là thiển định. Ngày nay, thuật ngữ này thường bị
gắn liền với tôn giáo và sự huyền bí, nhưng về nguyên tắc, thiền định là bất kỳ
phương pháp nào được dùng để quan sát trực tiếp tâm thức của một người. Quả
nhiên, nhiều tôn giáo đã sử dụng sâu rộng những kỹ thuật thiền định khác nhau,
nhưng điều dó không có nghĩa thiền định phải là tôn giáo. Nhiều tôn giáo cũng sử
dụng rộng rãi nhiều loại sách vở, nhưng đâu có nghĩa sử dụng sách vở là một
cách thực hành tôn giáo!
Trải qua hàng ngàn năm, loài người đã phát triển hàng trăm kỹ
thuật thiền định khác nhau, với nhiều sai biệt về nguyên tắc và hiệu quả. Tôi
chỉ có kinh nghiệm cá nhân với một phương pháp - Vipassana - và đó là phương pháp
duy nhất mà tôi có thể bàn luận với một chút thẩm quyền. Như một số những kỹ
thuật thiền định khác, người ta cho rằng Vipassana đã được phát kiến ở Ấn Độ
trong thời cổ bởi Đức Phật. Trải qua nhiều thế kỷ, một số câu chuyện và lý thuyết
được gán cho Đức Phật, thường là không có chứng cứ ủng hộ. Tuy nhiên, để thiền
định, chúng ta chẳng cần phải tin bất kỳ điều gì trong số những truyền thuyết ấy.
Vị thầy mà từ ngài tôi đã được truyền thụ về Vipassana, Goenka, là một người hướng
đạo hết sức thực tiễn. Ngài lặp đi lặp lại những chỉ dẫn đối với môn sinh rằng
khi quan sát tâm của chính mình, họ phải gạt ra một bên tất cả những mô tả thứ
cấp, mọi học thuyết tôn giáo và mọi sự phỏng đoán triết học, chỉ tập trung vào
kinh nghiệm của chính mình và bất kỳ thực tại gì mà họ thực sự gặp phải. Hàng
ngày, nhiều môn sinh được phép vào phòng của ngài để tìm kiếm sự hướng dẫn và đặt
những câu hỏi. Ngay lối vào phòng, một tấm bảng ghi hàng chữ: “Hãy tránh mọi thảo
luận lý thuyết và triết học, tập trung câu hỏi vào vấn đề liên quan đến việc thực
hành thực sự của mình”.
Thực hành thực sự nghĩa là quan sát các cảm giác của thân và
những phản ứng của tâm đối với những cảm giác ấy theo một cách có phương pháp,
miên mật và khách quan, nhờ đó phát hiện những hình mẫu căn bản của tâm. Đôi
khi, có người biến việc thiền định thành việc theo đuổi những kinh nghiệm riêng
về trạng thái sung sướng và đê mê. Thế nhưng thực sự, ý thức là điều bí mật vĩ
đại nhất của vũ trụ, và những cảm giác bức bối hay ngứa ngáy, dù chỉ là mỗi mảnh
của ý thức, cũng huyền bí như cảm giác của trạng thái hỷ lạc hay sự hợp nhất với
vũ trụ vậy. Người thực hành thiền định theo phương pháp Vipassana phải thận trọng
không bao giờ bám vào việc tìm kiếm những kinh nghiệm đặc biệt, mà phải tập
trung vào việc hiểu biết thực tại về tâm thức của chính mình, bất kể thực tại ấy
có thể là gì.
Trong những năm gần đây, các học giả thuộc lĩnh vực tâm và
não đã thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng về những kỹ thuật thiền định này,
nhưng cho đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn chỉ sử dụng công cụ này một
cách gián tiếp. Nhà khoa học đặc trưng ấy không thực sự tự mình thực hành thiền
định. Thay vào đó, người này mời những thiền giả có kinh nghiệm đến phòng thí
nghiệm của mình, phủ lên đầu các vị thiền giả ấy những điện cực, đề nghị các vị
ấy thực hành thiền rồi quan sát những hoạt động của não do việc thiền định mang
lại. Việc này có thể dạy cho chúng ta nhiều điều thú vị về não, nhưng nếu mục
đích của nghiên cứu là để hiểu về tâm thì chúng ta vẫn bỏ sót những hiểu biết
sâu sắc quan trọng nhất. Điều đó cũng giống như một người cố gắng tìm hiểu cấu
trúc của vật chất bằng cách quan sát một tảng đá thông qua một chiếc thấu kính.
Bạn đến gặp người ấy, trao cho người ấy một chiếc kính hiển vi và bảo, “Hãy thử
cái này xem. Ông có thể thấy rõ hơn”. Người ấy nhận chiếc kính hiển vi, nhặt
chiếc thấu kính đáng tin cậy của mình lên, và cẩn thận quan sát qua chiếc thấu
kính ấy thứ vật chất mà chiếc kính hiển vi vừa tạo ra… Thiền định là công cụ
dùng để quan sát trực tiếp tâm. Bạn sẽ bỏ sót rất nhiều tiềm năng của công cụ ấy
nếu thay vì tự mình thiền định, bạn lại giám sát những hoạt động điện học trong
não của một thiền giả khác.
Chắc chắn, tôi không đề nghị bỏ qua những dụng cụ và sự thực
hành hiện tại về việc nghiên cứu não. Thiền định không thể thay thế những điều ấy,
nhưng có thể bổ sung cho chúng. Điều này cũng giống như việc các kỹ sư đào một
đường hầm xuyên qua một ngọn núi khổng lồ. Tại sao lại chỉ đào từ một phía?
Cùng lúc đào từ hai phía sẽ tốt hơn. Nếu não và tâm chỉ là một và giống hệt
nhau, cả hai đoạn đường hầm chắc chắn phải gặp nhau. Nhưng nếu não và tâm không
phải là như nhau? Khi ấy điều quan trọng hơn tất cả là phải đào vào tâm, chứ
không chỉ đào vào não.
Một số trường đại học và phòng thí nghiệm quả thực đã bắt đầu
sử dụng việc thiền định như một công cụ nghiên cứu chứ không chỉ là một đối tượng
cho việc nghiên cứu não. Thế nhưng tiến trình này vẫn còn ở giai đoạn ấu trĩ,
nhất là vì nó đòi hỏi sự đầu tư phi thường về phần nhà nghiên cứu. Hoạt động
thiền định nghiêm túc đòi hỏi một tinh thần kỷ luật khủng khiếp. Nếu bạn cố gắng
quan sát khách quan những cảm giác của mình, điều đầu tiên bạn nhận thấy sẽ là
tâm thức sao mà phóng túng và hấp tấp đến vậy. Ngay cả khi bạn tập trung chú ý
vào việc quan sát một cảm giác tương đối rõ rệt như hơi thở vào và ra hốc mũi
mình, tâm thức của bạn thường cũng chỉ thực hiện công việc ấy không quá vài
giây đồng hồ trước khi nó đánh mất sự tập trung và bắt đầu lang thang vào những
tư tưởng, ký ức và mơ mộng.
Khi ống kính hiển vi lạc mất tiêu điểm, chúng ta chỉ việc
quay chiếc cần điều chỉnh. Nếu chiếc cần điều chỉnh ấy hư, ta có thể gọi một
người thợ máy sửa lại. Nhưng khi tâm thức lạc mất tiêu điểm, ta không thể sửa
chữa dễ dàng như vậy. Thường thường người ta phải chấp nhận sự rèn luyện lâu
dài, làm cho tâm dịu lại và biết tập trung, sau đó tâm mới có thể tự quan sát
nó một cách khách quan và có phương pháp. Có lẽ, trong tương lai chúng ta có thể
nuốt một viên thuốc nào đó và thành tựu được sự tập trung trong khoảnh khắc.
Nhưng vì thiền định nhắm đến việc thăm dò tâm chứ không chỉ tập trung tâm, một
biện pháp đi tắt như vậy có thể chứng tỏ là phản tác dụng. Thuốc có thể làm cho
ta trở nên bén nhạy và tập trung, nhưng cùng lúc, nó có thể ngăn cản ta thăm dò
toàn thể phạm vi hoạt động của tâm. Sau nữa, ngay cả ngày nay chúng ta có thể tập
trung tâm bởi việc xem một bộ phim có tình tiết ly kỳ trên mản ảnh truyền hình
- nhưng tâm ấy quá tập trung vào nội dung phim đến nỗi nó không thể quan sát những
động lực của chính nó.
Thế nhưng ngay cả khi chúng ta chưa thể tin cậy vào những
công cụ kỹ thuật nhỏ nhặt ấy, chúng ta cũng không nên bỏ cuộc. Chúng ta có thể
được truyền cảm hứng bởi những nhà nhân học, những nhà sinh vật học hay những
phi hành gia. Các nhà nhân học và sinh vật học trải qua hàng nhiều năm ở những
nơi xa xôi phơi mình trước những hoàn cảnh nguy hiểm và bệnh tật. Các phi hành
gia tận hiến hàng năm trời chấp nhận những chế độ đào tạo khó khăn, chuẩn bị
cho những chuyến du hành đầy bất trắc ở ngoại tầng không gian. Nếu loài người
chúng ta sẵn sàng thực hiện những cố gắng như vậy để hiểu biết thêm về những nền
văn hóa xa lạ, những giống sinh vật chưa nghe nói tới, những hành tinh vời vợi,
có thể chúng ta cũng nên làm việc với cùng sự cần cù như vậy để hiểu rõ về tâm
thức của chính mình. Và tốt hơn, chúng ta nên hiểu rõ về tâm thức của chính
mình trước khi những thuật toán vận hành bởi trí thông minh nhân tạo có đủ điều
kiện thay thế chúng ta làm chủ vũ trụ này.
Nguyên tác: Meditation, trích trong 21 Lessons for the 21st
Century, Yuval Noah Harari.
Tác giả: Yuval Noah Harari là người Do Thái, Giáo sư Sử học
tại Đại học Tel Aviv, tác giả các tập sách bán chạy Sapiens, A Brief History of
Humankind và Homo Deus, A Brief History of Tomorrow. 21 bài học cho thế kỷ XXI
là quyển sách thứ ba của ông
Yuval Noah Harari – Nguyễn Văn Nhật dịch
Văn Hóa Phật Giáo số 320 ngày 01-05-2019
Thư Viện Hoa Sen
Nhận xét
Đăng nhận xét