HAI PHONG CÁCH THIỀN CHÁNH NIỆM
HAI PHONG CÁCH THIỀN CHÁNH NIỆM
Tác giả: Bhikkhu Bodhi
Dịch giả: Nguyên Giác
(Ghi chú của người dịch: Bài này dịch từ bài viết năm 2005
nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu
hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh. Bài này nêu ra hai phong cách: nhóm thứ nhất,
những người dùng thiền chánh niệm cho các mục tiêu thế gian, và nhóm thứ nhì,
những người có niềm tin Phật Giáo và dùng thiền chánh niệm cho lộ trình tu học
giải thoát. Thiền chánh niệm hiện đang dùng cho nhiều mục tiêu trần gian, ở bệnh
viện, trường học, quân đội… Thiền đưa tới nhiều lợi ích tới nổi nhiều tu sĩ các
tôn giáo khác cũng Thiền tập và ứng dụng theo kiểu riêng của họ. Trong hàng
ngàn sách viết về Thiền tại Hoa Kỳ, có nhiều sách đồng hóa Phật Giáo với các
tôn giáo khác, xem như kinh nghiệm Thiền chánh niệm chủ yếu là để “hạnh phúc với
cái bây giờ và ở đây” và nơi tâm an lạc đó thì “đạo nào cũng như nhau, và các
giáo chủ đều ngang hàng nhau.” Và cũng có sách nói rằng nhờ Thiền cho nên các
tác giả trải qua các kinh nghiệm sâu sắc hơn về Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do
Thái Giáo… Điều ghi nhận rằng ngài Bodhi hai lần nói về khuynh hướng Phật tử chủ
trương hiện đại hóa [Buddhist modernists], những vị khi truyền dạy thiền chánh
niệm thường không nói gì về khổ, về nghiệp quả và về tái sinh. Trong khi qua
bài viết này, ngài Bhikkhu Bodhi hai lần nói tới chữ “suffering” (khổ), hai lần
nói tới chữ “kamma” (nghiệp), và ba lần nói tới chữ “rebirth” (tái sinh).
Ngài Bodhi sinh năm 1944 tại Brooklyn, New York, trong một
gia đình Do Thái Giáo; năm 1972, ngài hoàn tất Tiến sĩ Triết học tại Claremont
Graduate University. Năm 1967, trong khi còn là sinh viên, ngài Bodhi thọ giới
sa di trong truyền thống Đại Thừa Việt Nam. Năm 1972, sau khi tốt nghiệp Tiến
sĩ, Bodhi sang Sri Lanka thọ giới sa di trong truyền thống Theravda, và năm
1973, thọ đại giới để trở thành một Tỳ kheo Theravada. Năm 1984, nối nhiệm ngài
Nyanaponika Thera, ngài Bodhi được bổ nhiệm làm Chủ Bút ấn bản tiếng Anh của hội
Buddhist Publication Society (BPS, Sri Lanka) và năm 1988, trở thành Chủ tịch hội
này. Năm 2002, ngài Bodhi từ nhiệm chức Chủ Bút BPS và về cư ngụ ở Hoa Kỳ. Năm
2000, trong Đại Lễ Vesak đầu tiên tại Liên Hợp Quốc, ngài Bodhi đọc bài diễn
văn chính. Sau một thời gian sống tại tu viện Bodhi Monastery (thị trấn
Lafayette Township, tiểu bang New Jersey), ngài Bodhi hiện sống và giảng dạy ở
tu viện Chuang Yen Monastery (thị trấn Carmel, tiểu bang New York), và là Chủ Tịch
hội Buddhist Association of the United States. Ngài Bodhi là sáng lập viên của
hội từ thiện Buddhist Global Relief, nơi tài trợ các dự án chống đói nghèo và
giúp tăng trưởng nữ quyền trên toàn cầu. Hiện nay, ngài Bodhi cũng là Chủ Tịch
hội Yin Shun Foundation.
Người dịch do dự khi dịch bài này, vì không muốn bị ngộ nhận
là ám chỉ tới bất kỳ ai hay bất kỳ tổ chức nào. Người dịch suy đoán rằng ngài
Bhikkhu Bodhi khi viết bài này [năm 2005] chỉ có ý làm sáng tỏ một số thắc mắc
của nhiều Phật Tử, trong cương vị ngài là một nhà sư, một học giả, một hành giả,
và là Chủ Tịch nhiều hội đoàn Phật Giáo. Bản Anh văn sẽ được kèm dưới bản Việt
dịch này để các bạn trẻ không rành tiếng Việt đọc.)
_()_
Hiện nay, việc thực tập thiền chánh niệm đã được ưa chuộng
khắp toàn cầu, nhưng để đạt thành công đó, nó đã phải trải qua một sự chuyển
hóa vi tế. Thay vì được dạy như một phần tích hợp của con đường Phật Giáo, nó
thường được trình bày như một lĩnh vực đời thường mà thành quả đạt được nhiều
hơn cho đời sống trong thế gian này hơn là sự giải thoát xuất thế gian. Nhiều
người thiền tập đã xác chứng về lợi ích cụ thể họ đạt được từ việc thực tập thiền
chánh niệm, lợi ích đó trải rộng từ sự tăng hiệu quả trong công việc và giao tiếp
tốt hơn cho tới sự bình an thâm sâu hơn, từ bi hơn, và tỉnh thức hơn. Tuy
nhiên, trong khi các lợi ích đó có thể chắc chắn là có giá trị riêng, nhưng
chúng không phải là mục tiêu tối hậu mà Đức Phật đưa ra như điểm cuối trong việc
tu luyện của ngài. Mục tiêu đó, trong ngôn ngữ các bản văn, là thành tựu Niết
Bàn, phá hủy tất cả các lậu hoặc nơi đây và bây giờ, và giải thoát ra khỏi vòng
tái sinh có từ vô tận.
Có lẽ áp lực mạnh mẽ nhất đã dẫn tới cách bày tỏ đương đại của
thiền chánh niệm là nhu cầu phải cấy ghép việc thực tập này vào trong một môi
trường hầu hết là thế tục, xa lạ với khuôn truyền thống của niềm tin và triết
thuyết Phật Giáo. Với bầu không khí ngờ vực của thời đại chúng ta, sẽ hoàn toàn
thích nghi để những người mới tới với Pháp được mời khám phá chính họ về khả
năng nội tại trong việc tập thiền này. Có lẽ, điều cuối cùng người ta cần là có
một nghị trình đầy đủ về triết thuyết Phật Giáo áp đặt vào họ ngay từ khởi đầu.
Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể ban đầu thiền tập với một
tâm cởi mở và khám phá, vào một điểm nào đó trong việc thực tập, chúng ta tất yếu
tới một ngã rẽ nơi chúng ta đối diện với một lựa chọn. Hoặc là chúng ta có thể
tiếp tục thiền tập như một lĩnh vực phi tôn giáo, thuần túy tự nhiên, hoặc
chúng ta có thể chuyển việc thiền tập trở về bối cảnh cội nguồn của niềm tin và
tri thức Phật Giáo. Nếu chúng ta lựa chọn lối đi đầu, chúng ta có thể vẫn vào
sâu hơn trong thiền định và đạt thêm nhiều lợi ích chúng ta đã đạt được trước
giờ --- bình an sâu thẳm hơn, sức định tăng thêm, cởi mở nhiều hơn, ngay cả một
hình thức của nếp sống sâu thẳm hơn với cái bây giờ và ở đây. Tuy nhiên, dù những
thành quả này như có thể được mong đợi trong chính nó, lại trái ngược với lời Đức
Phật dạy vì vẫn là bất toàn. Để cho việc thực tập thiền chánh niệm đạt được
thành quả trọn vẹn như Đức Phật dạy, nó phải được bao trùm bởi nhiều phẩm tính
khác mà các phẩm tính này nối kết nó vào khung của Phật pháp.
Dẫn đầu trong các phẩm tính đó là một cặp hòa hợp của niềm
tin và chánh kiến. Là một yếu tố trong con đường học Phật, niềm tin (saddha)
không có nghĩa là tin mù quáng, nhưng là một sẵn lòng chấp nhận tin vào các lý
thuyết nào đó mà chúng ta không có thể, nơi trình độ hiện nay của bản thân
chúng ta, chưa thực nghiệm được cho chính mình. Các lý thuyết này là về cả hai
khía cạnh: bản chất thực tại, và mức độ thành đạt cao hơn của đường tu học.
Trong bản đồ truyền thống của tu học Phật Giáo, niềm tin được đặt nơi bước đầu,
như điều kiện ban đầu cho các giai đoạn sau của tam học: giới, định và huệ. Các
kinh văn như dường không hình dung trước về khả thể rằng có ai thiếu niềm tin
vào Pháp mà có thể thực tập thiền chánh niệm và đạt được thành quả tích cực.
Nhưng bây giờ, hiện tượng đó đã trở thành phổ biến rộng. Điều hoàn toàn bình
thường bây giờ cho người tập thiền là bước tiếp cận đầu tiên với Pháp xuyên qua
thiền chánh niệm chuyên sâu, và rồi sử dụng kinh nghiệm này như một tiêu chuẩn
để lượng định quan hệ của họ với Phật pháp.
Ngay nơi giao lộ này, lựa chọn họ quyết định sẽ chia người
tu thiền ra hai nhóm lớn. Một nhóm gồm những người tập trung riêng vào các lợi
ích xác thực mà thiền tập cho thành quả nơi đây và bây giờ, ngưng tất cả các
quan tâm về những gì nằm vượt xa hơn chân trời kinh nghiệm riêng của họ. Nhóm
thứ nhì gồm những người công nhận rằng thiền tập là để lưu chảy từ một nguồi suối
tri thức sâu thẳm hơn và rộng hơn chính [tri thức của] họ. Để tìm theo trí tuệ
này tới tận nguồn, các thiền gia này sẵn sàng khiêm hạ để tìm học Phật pháp và
như thế ôm lấy Pháp như một toàn thể hợp nhất.
Sự kiện rằng thiền chánh niệm có thể được thực tập nghiêm
túc ngay cả bên ngoài vòng niềm tin Phật Giáo dẫn tới một câu hỏi lý thú chưa
bao giờ được minh bạch nêu lên trong Kinh Điển và các Luận thư. Nếu thiền chánh
niệm có thể được tu tập thuần túy cho lợi
ích thấy được tức khắc, rồi thì niềm tin giữ vai trò nào trong việc phát triển
con đường tu? Một cách chắc chắn, niềm tin như là một chấp nhận toàn bộ triết
thuyết Phật Giáo thì không phải là một điều kiện cần thiết cho việc thực tập Phật
pháp. Như chúng ta đã thấy, những người không đi theo Pháp như một con đường tới
giải thoát tâm linh có thể vẫn còn chấp nhận các giới luật đạo đức Phật Giáo và
thực tập thiền như một cách để an tĩnh nội tâm.
Do vậy, niềm tin phải giữ một vai trò khác hơn là vai trò của
một “đinh thúc ngựa đơn giản” để [thúc phóng tới] hành động, nhưng bản chất
chính xác của vai trò này vẫn là có vấn đề. Có lẽ giải pháp sẽ hiện ra nếu
chúng ta hỏi rằng niềm tin nào thực sự có ý nghĩa trong khuôn khổ tu học Phật
Pháp. Thấy rõ tức khắc rằng niềm tin không có thể được giải nghĩa thích nghi
đơn giản như là kính ngưỡng Đức Phật, hay như một tập họp các hành động tận hiến,
ngưỡng mộ và biết ơn. Vì trong khi các phẩm chất này thường hiện hữu cùng với
niềm tin, chúng có thể xuất hiện toàn bộ ngay cả khi không có niềm tin.
Nếu chúng ta khảo sát niềm tin chi tiết hơn, chúng ta sẽ thấy
rằng bên cạnh yếu tố cảm xúc, nó cũng liên hệ tới một phần tri thức nhận biết.
Điều này bao gồm trong một [tâm thức] sẵn sàng chấp nhận Đức Phật như một người
khám phá độc đáo và như người tuyên bố về sự thật giải thoát. Được nhìn từ góc
độ này, niềm tin, một cách cần thiết, dẫn tới một quyết định. Như chữ quyết định
ám chỉ (“để quyết định” = để cắt đứt; "to decide" = to cut off), để đặt
niềm tin trong một điều gì đó có nghĩa là để hành xử một hành vi phân biệt. Như
thế niềm tin Phật Giáo kéo theo, ít nhất là ám chỉ, một bác bỏ các tuyên thuyết
của các vị thầy tâm linh khác như là người mang thông điệp giải phóng tương
đương với Đức Phật. Như một quyết định, niềm tin cũng dẫn tới sự chấp nhận. Nó
liên hệ tới một sự sẵn lòng tự cởi mở đối với các nguyên tắc đã được Đức Phật
tuyên thuyết và gắn bó vào chúng [các tuyên thuyết này] như các hướng dẫn đáng
tin tới tri thức và giới luật.
Chính quyết định này tách rời những người tập thiền chánh niệm
như một lĩnh vực thuần tự nhiên xa ra khỏi những người tu học trong khuôn khổ của
niềm tin Phật Giáo. Nhóm người trước (tập thiền nhưng không niềm tin PG) khi
ngưng bất kỳ phán đoán nào về lời Đức Phật dạy về hoàn cảnh nhân sinh đã hạn chế
thành quả của việc tu tập chỉ ở mức tương ưng với một thế giới quan trần tục và
tự nhiên. Nhóm người sau (có niềm tin PG) bằng cách chấp nhận lời Đức Phật dạy
về hoàn cảnh nhân sinh đạt được tiếp cận với mục tiêu mà chính Đức Phật đã chỉ
ra như mục tiêu tối hậu của tu tập.
Trụ cột thứ nhì hỗ trợ việc tu tập thiền chánh niệm là phần
nhận thức của niềm tin, tức là, chánh kiến (right view, samma ditthi). Mặc dù
chữ kiến (view) có thể gợi ý rằng hành giả thực sự thấy các nguyên tắc được xem
là chân chính, nhưng bước đầu tu học hiếm khi là [thấy] như thế. Đối với tất cả,
chỉ trừ vài hành giả tài năng bẩm sinh rất phi thường, chánh kiến ban đầu có
nghĩa là niềm tin chân chánh, sự chấp nhận các nguyên tắc và các triết thuyết
lưu xuất từ niềm tin vào sự giác ngộ của Đức Phật. Mặc dù các Phật tử thời hiện
đại đôi khi tuyên xưng rằng Đức Phật nói rằng người ta chỉ nên tin vào những gì
người ta có thể tự chứng thực được, nhưng trong Kinh Tạng Pali không hề có lời
tuyên xưng như thế. Đức Phật chỉ nói rằng người ta không nên chấp nhận lời ngài
dạy một cách mù quáng, nhưng nên khảo sát vào ý nghĩa [các lời dạy đó] và tìm
cách tự kinh nghiệm chứng thực cho chính họ.
Trái ngược với chủ nghĩa hiện đại hóa Phật Giáo (Contrary to
Buddhist modernism), có nhiều nguyên tắc Đức Phật dạy như là chủ yếu để hiểu
chân chánh mà chúng ta, trong trình độ hiện nay của chúng ta, không có thể tự
nhìn thấy cho chính mình. Những điều này không phải không đáng kể, vì chúng định
nghĩa một khung chương trình toàn bộ về giải thoát như lời Đức Phật dạy. Chúng
không chỉ mô tả các chiều kích sâu hơn về Khổ mà từ đó chúng ta cần giải thoát,
nhưng chúng chỉ về một hướng đi nơi giải thoát chân thực phía trước, và định ra
các bước tu học dẫn tới chứng thực mục tiêu [giải thoát].
Các nguyên tắc này bao gồm các giáo lý về chánh kiến cả “thế
gian” và “xuất thế gian.” Chánh kiến thế gian là một loại hiểu biết chân chánh
dẫn tới một nơi thiện lành trong vòng tái sinh luân hồi. Nó liên hệ một sự chấp
nhận về các nguyên tắc của nghiệp và quả của nghiệp; về sự phân biệt giữa các
hành vi thiện và ác; và về sự mở rộng vô biên và nhiều cõi ta bà (samsara)
trong đó tái sanh có thể xảy ra. Chánh kiến xuất thế gian là hiểu biết dẫn tới
sự giải thoát toàn triệt ra khỏi cõi ta bà. Nó dẫn tới sự hiểu biết về Tứ Thánh
Đế trong các ý nghĩa chi tiết sâu hơn, đưa ra không chỉ như một phân tích đơn
giản về nỗi khổ tâm lý, nhưng là một mô tả về gánh nặng luân hồi và một chương
trình để giải thoát tối hậu. Thực sự, chánh kiến xuất thế gian là bước đầu
trong Bát Chánh Đạo và dẫn đường cho 7 yếu tố khác về hướng tịch diệt khổ đau.
Trong khi kỹ thuật cụ thể để thực tập thiền chánh niệm có thể
y hệt nhau cho những người dùng thiền như một lĩnh vực thuần túy tự nhiên và
cho những người dùng thiền trong khung lộ trình của Pháp, hai phong cách thiền
tập vẫn sẽ khác nhau sâu sắc đối với các thành quả mà các kỹ thuật có thể đưa tới.
Khi được thực tập trong hiểu biết thế gian tự nhiên, thiền chánh niệm có thể
đưa tới an bình hơn, hiểu biết hơn, và thanh thản hơn, ngay cả tới các kinh
nghiệm về tuệ. Nó có thể làm trong sạch tâm, xóa các phiền não thô và dẫn tới sự
chấp nhận bình lặng các thăng trầm của cuộc đời. Vì các lý do đó, kiểu thực tập
này không nên bị xem thường. Tuy nhiên, từ một điểm nhìn sâu hơn, hình thức thiền
Phật Giáo dùng riêng cho đời thường này vẫn là bất toàn. Nó vẫn bị buộc vào cõi
sinh tồn hữu vi, vẫn còn bị buộc vào chu kỳ nghiệp và hậu quả của nghiệp.
Tuy nhiên, khi thiền chánh niệm được nâng lên từ niềm tin
sâu sắc vào Đức Phật như vị thầy giác ngộ toàn triệt, và được chiếu sáng từ
trên bởi trí tuệ của Phật pháp, nó tìm được một khả năng mới mà phương pháp kia
thiếu kém. Nó bây giờ vận hành với hỗ trợ của [tâm] xả ly, hướng tới giải thoát
tối hậu. Nó trở thành chìa khóa để mở cánh cửa Bất Tử, phương tiện để thành đạt
một sự tự do mà không bao giờ có thể bị mất. Với như thế, thiền chánh niệm siêu
vượt qua các giới hạn của các pháp hữu vi, siêu vượt ngay cả chính nó, để tới mục
tiêu thích đáng: xóa sổ tất cả các lậu hoặc của cõi sinh tồn và giải thoát ra
khỏi vòng tròn vô thủy của sinh, già và chết.
HẾT
ENGLISH
TWO STYLES OF INSIGHT MEDITATION
By Bhikkhu Bodhi
© 2005
Today the practice of insight meditation has gained global
popularity, yet in achieving this success it has undergone a subtle
metamorphosis. Rather than being taught as an integral part of the Buddhist
path, it is now often presented as a secular discipline whose fruits pertain
more to life within the world than to supramundane release. Many meditators
testify to the tangible benefits they have gained from the practice of insight
meditation, benefits that range from enhanced job performance and better
relationships to deeper calm, more compassion, and greater awareness. However,
while such benefits may certainly be worthwhile in their own right, taken by
themselves they are not the final goal that the Buddha himself holds up as the
end point of his training. That goal, in the terminology of the texts, is the
attainment of Nibbana, the destruction of all defilements here and now and
deliverance from the beginningless round of rebirths.
Perhaps the most powerful pressure that has shaped the
contemporary expression of insight meditation has been the need to transplant
the practice into a largely secular environment remote from its traditional
matrix of Buddhist faith and doctrine. Given the skeptical climate of our age,
it is quite appropriate that newcomers to Dhamma be invited to explore for
themselves the potential inherent in the practice. Perhaps the last thing they
need is to have the full agenda of Buddhist doctrine thrust upon them from the
start.
However, though we may initially take up meditation with an
open and explorative mind, at a certain point in our practice we inevitably
arrive at a crossroads where we are faced with a choice. Either we can continue
the meditation as a purely naturalistic, non-religious discipline, or we can
transpose the practice back into its original setting of Buddhist faith and
understanding. If we choose the first route, we might still deepen our
meditation and reap more abundantly the same benefits we have obtained so far —
deeper calm, more equanimity, greater openness, even a kind of penetration of
the here and now. Nevertheless, as desirable as these fruits might be in
themselves, viewed against the Buddha's word they remain incomplete. For the
practice of insight meditation to achieve the full potential ascribed to it by
the Buddha, it must be embraced by several other qualities that rivet it to the
framework of the teaching.
Foremost among such qualities is the complementary pair of
faith and right view. As a factor of the Buddhist path, faith (saddha) does not
mean blind belief but a willingness to accept on trust certain propositions
that we cannot, at our present stage of development, personally verify for
ourselves. These propositions concern both the nature of reality and the higher
reaches of the path. In the traditional map of the Buddhist training, faith is
placed at the beginning, as the prerequisite for the later stages comprised in
the triad of virtue, concentration, and wisdom. The canonical texts do not seem
to envisage the possibility that a person lacking faith in the tenets specific
to the Dhamma could take up the practice of insight meditation and reap
positive results. Yet today such a phenomenon has become extremely widespread.
It is quite common now for meditators to make their first contact with the
Dhamma through intensive insight meditation, and then to use this experience as
a touchstone for assessing their relationship to the teaching.
At this juncture, the choice they make divides meditators
into two broad camps. One consists of those who focus exclusively on the
tangible benefits the practice yields here and now, suspending all concern with
what lies beyond the horizons of their own experience. The other consists of
those who recognize the practice to flow from a fount of understanding far
deeper and broader than their own. To follow this wisdom to its source, such
meditators are prepared to subordinate their own familiar assumptions to the
disclosures of the teaching and thus embrace the Dhamma as an integral whole.
The fact that insight meditation can be seriously practiced
even outside the domain of Buddhist faith raises an interesting question never
explicitly posed by the canon and commentaries. If insight meditation can be
pursued solely for its immediately visible benefits, then what role does faith play
in the development of the path? Certainly, faith as a full acceptance of
Buddhist doctrine is not a necessary condition for Buddhist practice. As we
have seen, those who do not follow the Dhamma as a path to spiritual
deliverance might still accept the Buddhist ethical precepts and practice
meditation as a way to inner peace.
Faith must therefore play a different role than that of a
simple spur to action, but the exact nature of this role remains problematic.
Perhaps the solution will emerge if we ask what faith actually means in the
context of Buddhist practice. It should be clear at once that faith cannot be
adequately explained simply as reverence for the Buddha, or as some alloy of
devotion, admiration, and gratitude. For while these qualities often exist
alongside faith, they may all be present even when faith is absent.
If we examine faith more closely, we would see that besides
its emotive ingredients, it also involves a cognitive component. This consists
in a readiness to accept the Buddha as the unique discoverer and proclaimer of
liberating truth. Seen from this angle, faith necessarily involves a decision.
As the word decision implies ("to decide" = to cut off), to place
faith in something is to exercise an act of discrimination. Thus Buddhist faith
entails, at least implicitly, a rejection of the claims of other spiritual
teachers to be bearers of the liberating message on a par with the Buddha
himself. As a decision, faith also entails acceptance. It involves a
willingness to open oneself to the principles made known by the Enlightened One
and adhere to them as trustworthy guides to knowledge and conduct.
It is this decision that separates those who take up the
practice of insight meditation as a purely naturalistic discipline from those
who practice it within the framework of the Buddhist faith. The former, by
suspending any judgment about the picture of the human condition imparted by
the Buddha, limit the fruit of the practice to those that are compatible with a
secular, naturalistic worldview. The latter, by accepting the Buddha's own
disclosure of the human condition, gain access to the goal that the Buddha
himself holds up as the final aim of the practice.
The second pillar that supports the practice of insight
meditation is the cognitive counterpart of faith, namely, right view (samma
ditthi). Though the word "view" might suggest that the practitioner
actually sees the principles considered to be right, at the outset of the
training this is seldom the case. For all but a few exceptionally gifted
disciples, right view initially means right belief, the acceptance of
principles and doctrines out of confidence in the Buddha's enlightenment.
Though Buddhist modernists sometimes claim that the Buddha said that one should
believe only what one can verify for oneself, no such statement is found in the
Pali canon. What the Buddha does say is that one should not accept his
teachings blindly but should inquire into their meaning and attempt to realize
their truth for oneself.
Contrary to Buddhist modernism, there are many principles
taught by the Buddha as essential to right understanding that we cannot, in our
present state, see for ourselves. These are by no means negligible, for they
define the framework of the Buddha's entire program of deliverance. Not only do
they depict the deeper dimensions of the suffering from which we need release,
but they point in the direction where true liberation lies and prescribe the
steps that lead to realization of the goal.
These principles include the tenets of both
"mundane" and "transcendent" right view. Mundane right view
is the type of correct understanding that leads to a fortunate destination
within the round of rebirths. It involves an acceptance of the principles of
kamma and its fruit; of the distinction between meritorious and evil actions;
and of the vast expanse and multiple domains of samsara within which rebirth
may occur. Transcendent right view is the view leading to liberation from
samsara in its entirety. It entails understanding the Four Noble Truths in
their deeper ramifications, as offering not merely a diagnosis of psychological
distress but a description of samsaric bondage and a program for final release.
It is the transcendent right view that comes at the head of the Noble Eightfold
Path and steers the other seven factors toward the cessation of suffering.
While the actual techniques for practicing insight
meditation may be identical for those who pursue it as a purely naturalistic
discipline and those who adopt it within the framework of Dhamma, the two
styles of practice will nevertheless differ profoundly with respect to the
results those techniques can yield. When practiced against the background of a
naturalistic understanding, insight meditation can bring greater calm,
understanding, and equanimity, even experiences of insight. It can purify the
mind of the coarser defilements and issue in a tranquil acceptance of life's
vicissitudes. For these reasons, this mode of practice should not be
disparaged. However, from a deeper point of view, this appropriation of
Buddhist meditation remains incomplete. It is still confined to the sphere of
conditioned existence, still tied to the cycle of kamma and its fruit.
When, however, insight meditation is sustained from below by
deep faith in the Buddha as the perfectly enlightened teacher, and illuminated
from above by the wisdom of the teaching, it acquires a new capacity that the
other approach lacks. It now functions with the support of dispassion, moving
toward ultimate deliverance. It becomes the key to open the doors to the
Deathless, the means to gain a freedom that can never be lost. With this,
insight meditation transcends the limits of the conditioned, transcends even
itself, to arrive at its proper goal: the eradication of all the fetters of
existence and release from the beginningless round of birth, aging, and death.
https://www.accesstoinsight.org/lib/authors/bodhi/bps-essay_45.html
Nhận xét
Đăng nhận xét